Đường thơ ấu thiêng liêng và thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu

12:13 | Thứ Ba, 30 tháng 9, 2014
Dường như Chúa muốn thi hành quyền năng của Người tùy lòng tin cậy phó thác của ta đối với Người (TMTH 369,371,372). Và chị đã khám phá ra “cách trở nên trẻ em” là cách sống bé nhỏ như trẻ thơ, đó là luôn có lòng tin cậy phó thác hoàn toàn cho Chúa.  
1. Đường thiêng liêng thơ ấu
Thánh trinh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu là người đã khởi xướng lên đường thiêng liêng thơ ấu, nguồn gốc cho nhiều cuộc mạo hiểm thiêng liêng trong thế kỷ XX, bắt đầu ở nước Pháp và sau ở nhiều nước trên thế giới. Các sách đạo ở Việt Nam thường nói đến “đường thơ ấu thiêng liêng” (dịch từ tiếng Pháp Voie spirituelle d’enfance hay voie d’enfance) hoặc nói đến “đường nhỏ” (petite voie). Thật ra đường thơ ấu thiêng liêng cũng chỉ là một đường thiêng liêng như nhiều đường thiêng liêng từ thời đầu của Hội Thánh, chỉ khác là có thêm từ “thơ ấu”.
Đường thiêng liêng là lối sống đạo của Kitô hữu tùy theo mỗi người thuộc nền văn hóa và hoàn cảnh xã hội khác nhau, ở mỗi thời mỗi nơi khác nhau mà thần học gọi là linh đạo, nghĩa là đường lối sống đạo theo Chúa Thánh Linh hướng dẫn. Ngày nay trong Hội Thánh, thường nhắc đến linh đạo của Thánh Augustinô, của Thánh Bênêđictô, của Thánh Phanxicô, của Thánh Đôminicô, của Thánh Inhaxiô, của Thánh Boscô, của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, nhưng riêng đường thiêng liêng của Thánh Têrêxa có tên là thơ ấu để phân biệt với các đường thiêng liêng khác đã kể trên.
Thơ ấu ở đây không thể hiểu theo giải nghĩa của từ điển là: rất ít tuổi, còn bé dại; cũng không thể hiểu là đường thiêng liêng cho con nít, mà phải hiểu theo Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, người đã được Phúc âm của Chúa Giêsu và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn soi sáng, để suy niệm, sống theo, và dạy cho các tập sinh trong Dòng Kín ở Li-xi-ơ sống theo.
Như vậy đường thiêng liêng thơ ấu có nghĩa là linh đạo, là lối sống theo Chúa Thánh Thần “thổi hơi và gợi hứng” cho mỗi người, và mỗi người đón nhận hơi thổi và gợi hứng của Người để sống theo Phúc âm Chúa Kitô. Linh đạo này bao gồm ba việc chính là: lắng nghe Lời Chúa, cách kết thân với Chúa, và sống theo Hội Thánh Chúa Kitô. Tuy nhiên mỗi Kitô hữu còn thuộc về một dân tộc có nền văn hóa riêng, còn sống trong những hoàn cảnh khác nhau tùy thời tùy nơi, nên cần phải biết hội nhập và thích ứng cho phù hợp. Còn “thơ ấu”, như đã nói ở trên, không có nghĩa là con nít, còn ít tuổi, còn bé dại mà phải hiểu đường thơ ấu của chị như chính chị đã gọi là “con đường nhỏ” hoặc “giáo thuyết bé nhỏ”. Thực ra trong các thủ bản chị không dùng “đời thiêng liêng thơ ấu”.
Vì thế vào hai năm cuối đời, chị đã vâng lời Bề trên Dòng để viết ba tập thủ bản A, B, C, sau được đúc kết thành Truyện Một Tâm Hồn (TMTH), trong đó chị đã trình bày những yếu tố chính: trước hết là lòng nhân từ thương xót của Cha trên trời; sau là chính bản thân và gia cảnh của chị, bối cảnh của tu viện, hoàn cảnh xã hội đương thời, tất cả đã góp phần giúp chị hình thành đường thiêng liêng thơ ấu của chị. Ta sẽ cùng nhau khám phá đời sống và giáo thuyết nhỏ của chị.
2. “Em chỉ là một cô gái không đủ sức làm việc và yếu đuối” (xem TMTH trang 388).
Để khám phá đời sống và đường thiêng liêng thơ ấu của chị, chúng ta rất may mắn có những tài liệu do chính tay chị viết để lưu lại cho nhà dòng, theo lệnh các Bề trên Dòng là chị ruột của chị. Đầu tiên Bề trên bảo chị tóm tắt cuộc đời thơ ấu (Thủ bản A), sau đó xin chị viết thêm về đời tu trong dòng (Thủ bản C), cuối cùng chị viết bổ túc để trình bày “giáo thuyết nhỏ” tức là đường thiêng liêng thơ ấu (Thủ bản B). Chị viết vào hai năm cuối cùng, khi bệnh tật, trước khi qua đời vào năm 24 tuổi. Chị viết vì vâng lời Bề trên chứ không để phổ biến cho mọi người nên chị trình bày rất chân thành, hồn nhiên. Cũng nên nhớ chị còn là một nhà thơ đã có hơn 50 bài thơ đạo.
Cuộc đời chị. Têrêxa là con gái út của gia đình ông bà Lu-y Mac-ti-nô, sinh ngày 2-1-1873 tại A-lăng-xông thuộc nước Pháp. Gia đình có 9 người con, hai trai bảy gái. Hai con trai đã theo hai chị về trời lúc còn non yếu. Còn lại là năm chị em gái lần lượt đều dâng mình cho Chúa trong các dòng. Chưa đầy 4 tuổi chị đã mồ côi mẹ. 8 tuổi phải đi học nội trú ở trường Li-xi-ơ. 10 tuổi bị bệnh nặng suýt chết. 11 tuổi được rước lễ lần đầu và thêm sức. 13 tuổi mắc bệnh bối rối về vấn đề đức khiết tịnh. 14 tuổi trải nghiệm đầu tiên về tội nhân cứng lòng không hối cải. 14 tuổi quyết định xin được đặc ân vào tu Dòng Kín sớm hơn luật định (đáng lẽ là 21 tuổi). 15 tuổi được nhận vào dòng kín Li-xi-ơ với tên Têrêxa Hài đồng Giêsu và Thánh Nhan. 17 tuổi tuyên khấn và đội lúp. 21 tuổi, ba của chị qua đời. 23 tuổi được làm tập sư coi tập sinh và được lệnh bề trên viết tự thuật, cuối năm 23 tuổi gặp thử thách rất nặng là bị thổ huyết vào thứ 6 Tuần Thánh tháng 3-1896. Rồi chị có ý thức là mình được ngồi bàn của những người tội lỗi với Chúa Giêsu, cũng ý thức mình có ơn gọi truyền giáo và ước ao truyền giáo. 24 tuổi sống những ngày cuối đời trong bệnh tật gây đau đớn hơn cũng như trong các cám dỗ về đức tin mạnh mẽ hơn. Cuối cùng sau cơn hấp hối kéo dài, chị qua đời ngày 8-7-1879.
Qua tự thuật của chị, ta thấy từ chỗ là con gái út trong gia đình đông con, vóc dáng thấp nhưng xinh đẹp, sức khỏe mong manh, tính tình tế nhị, bốn tuổi đã mồ côi mẹ, lớn lên đi học nội trú, gặp bệnh nặng suýt chết, bối rối kéo dài khi dậy thì, biết có những người tội lỗi cứng lòng không trở lại, muốn vào Dòng Kín mà chưa đủ tuổi, làm tập sư (coi tập sinh) chưa có nhiều kinh nghiệm vì quá trẻ, mắc bệnh ho lao thổ huyết phải liệt giường và trải qua cơn hấp hối lâu dài… tất cả không thể không làm chị phải mặc cảm tự ti như chính chị đã thú nhận: “em chỉ là cô gái không đủ sức làm việc và yếu đuối.” Tuy nhiên, chị không hề nản chí thất vọng nhưng ý thức “tất cả là hồng ân” của lòng Chúa là Cha nhân từ hay thương xót, và suy nghĩ cố gắng đáp lại tình yêu Chúa bằng đường thiêng liêng thơ ấu của chị.
3. Để lên trời chị đã chọn con đường bé nhỏ là tin cậy phó thác cho Chúa như trẻ thơ (xem TMTH trang 413,365,369,71)
Ý thức mình chỉ là cô gái không đủ sức làm việc và yếu đuối, phải trải qua bệnh tật và cám dỗ nặng nề, đáng lẽ chị phải mặc cảm tự ti, nản chí thất vọng. Nhưng trong suốt cuộc đời, chị lại cảm nghiệm được tình yêu nhân từ và thương xót của Chúa và Đức Maria, chị cũng nhờ ảnh hưởng lòng đạo đức của gia đình, chị đón nhận tất cả với trái tim tràn ngập biết ơn và yêu mến, bởi vì “ tất cả là hồng ân” (TMTH trang 366), nên chị quyết tâm nên thánh.
Từ 3 tuổi chị đã nhất định không từ chối Chúa điều gì – khi so sánh mình với các thánh chị thấy các ngài như núi mà chị như hạt cát – Chị biết Chúa nhân lành không bao giờ gợi lên trong chị những gì chị không thể làm được, và Người có thể dùng sự bé nhỏ yếu đuối để làm chị trở nên một vị thánh. Vì thế chị vui vẻ chấp nhận thân phận hạt cát và suy nghĩ: “tìm kiếm một con đường thẳng và ngắn nhất, cũng như hoàn hảo nhất để nên thánh” (TMTH trang 413). Chị mở Kinh Thánh và thấy trong Phúc âm thánh Mát-thêu Chúa Giêsu nói với các tông đồ: “Nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ em thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18, 3). Lời Chúa nói đây là nói cho tất cả mọi người lớn nhỏ. Nên chị nghĩ rằng việc của chị là phải làm sao cứ mãi mãi như trẻ nhỏ , dù lúc này chị đã là nữ tu 23 tuổi. Chị tưởng tượng ra cảnh một em bé chưa biết đi muốn lên với mẹ đang ở trên đầu thang. Em cố gắng nhấc chân lên bậc thang thứ nhất nhưng lần nào cũng té xuống không lên được. Thấy vậy cuối cùng mẹ em bước xuống bồng em lên với mẹ trên tay… Chị giải thích rằng Chúa như người cha nhân từ toàn năng và hay thương xót , Người mời gọi và thúc đẩy ta nên thánh, dù biết ta yếu đuối.
Nếu ta có thiện chí cố gắng tin cậy và phó thác hoàn toàn cho Người để cứ leo lên, thế nào Người cũng sẽ mau mắn cứu giúp họ (TMTH – trang 414): “lòng tin của con đã chữa con” (Mt 9,22) “anh tin thế nào thì được như vậy” (Mt 10,29), “lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được như vậy” (Mt 15,28)… dường như Chúa muốn thi hành quyền năng của Người tùy lòng tin cậy phó thác của ta đối với Người (TMTH 369,371,372). Và chị đã khám phá ra “cách trở nên trẻ em” là cách sống bé nhỏ như trẻ thơ, đó là luôn có lòng tin cậy phó thác hoàn toàn cho Chúa. Chị coi đó là cái thang máy đem chị lên với Chúa mà “thang máy đó chính là cánh tay của Chúa Giêsu” (TMTH trang 414).
Tại sao như vậy ? Chị thấy rằng tin cậy và phó thác hoàn toàn cho Chúa là dấu hiệu cốt yếu nhất của tình yêu đích thực. Nếu hai người yêu nhau mà còn nghi ngờ, sợ hãi nhau thì chưa phải là yêu. Chúa đã yêu con người hết mình và vô điều kiện thì con người phải yêu Chúa với tình yêu cũng hết mình và vô điều kiện. “Lấy tình yêu đáp lại tình yêu” (TMTH trang 372). Chị đã tìm thấy trong thư 1.Cor.13,31 thánh Phaolô nói đến con đường trổi vượt hơn cả đó là đức ái, hiểu theo nghĩa là tình yêu đối với Chúa. Chị suy nghĩ thêm rằng: Tình yêu đối với Chúa bao gồm mọi ơn gọi, không có tình yêu ấy thì các tông đồ chẳng còn rao giảng Phúc âm nữa, các vị tử đạo sẽ từ chối đổ máu mình ra (TMTH trang 386). Tình yêu đòi lòng tin cậy phó thác hoàn toàn cho Chúa cả xác hồn chứ không phải cách trừu tượng và phải được biểu lộ cụ thể trong cách kết thân với Chúa là cầu nguyện mà chị coi là “vũ khí có sức mạnh vô địch” Chúa ban cho chị (TMTH trang 476). Đồng thời tình yêu cũng đòi hỏi phải thể hiện trong hành động (TMTH trang 455). Cho nên chị cố gắng chu toàn những việc nhỏ mọn trong bổn phận hằng ngày bằng một tình yêu hết mình.
Trong tu viện chị chỉ có những việc như may giặt, quét nhà , làm cỏ, dọn bàn ăn, múc nước, dọn phòng thánh, dạy các tập sinh, viết tự thuật, chịu đau khổ vì bệnh tật, cám dỗ về đức tin… Do đó khi chị may giặt, quét nhà , làm cỏ, dọn bàn ăn… chịu bệnh tật, cám dỗ… chị sẽ yêu bằng một tình yêu phi thường, vì chỉ có tình yêu mới quan trọng, chỉ có tình yêu mới cứu rỗi “Chị yêu đến chết vì yêu “ (TMTH trang 429).
4. Ba ham mê của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu
Ý thức mình chỉ là cô bé không đủ sức làm việc và yếu đuối, và cũng ý thức mình được Chúa mời gọi để về trời bằng con đường nhỏ bé, đó là sống hoàn toàn tin cậy và phó thác cho Chúa như trẻ thơ. Tuy chỉ là một nữ tu ẩn mình trong những bức tường của Dòng Kín, thế mà chị luôn hướng cuộc đời tới Chúa, tới cánh đồng truyền giáo trên thế giới, trong đó có các linh mục, có biết bao người chưa biết Chúa, biết bao người tội lỗi. Vì thế chị đã không chỉ lo về trời một mình, nhưng chọn thể hiện con đường nhỏ bé của chị trong ba ham mê lớn: đó là cầu nguyện cho các linh mục, cầu nguyện cho các người tội lỗi, và làm việc truyền giáo.
4.1 “Em say mê cầu nguyện cho các linh mục lẽ ra phải trong sáng như pha lê” (TMTH trang 240)
Chị đã có dịp gặp nhiều linh mục thánh thiện và chị nghĩ rằng “Nếu phẩm chức cao vời của các ngài nâng cao các ngài lên trên các thiên thần thì các ngài cũng còn là những con người yếu đuối mỏng manh… Nếu các linh mục thánh thiện mà trong Phúc Âm Chúa Giêsu đã gọi là “muối của trần gian” chứng tỏ bằng hành vi của các ngài còn hết sức cần đến những lời cầu nguyện, thì phải nói gì về những linh mục nguội lạnh? Chúa Giêsu đã chẳng nói thêm “Nếu muối đã ra lạt thì lấy gì ướp cho nó mặn lại được” (Mt 5,13). Chị ý thức rằng: “mục đích duy nhất của các kinh nguyện và hy sinh của ơn gọi Cát Minh là làm tông đồ cho các tông đồ” (TMTH trang 241). Và trong thư gởi Mẹ Bề trên, chị viết: “Chúng ta đặc biệt phải cứu rỗi các linh hồn của các linh mục, các linh mục này lẽ ra phải trong sáng hơn pha lê”. Vì thế chị đã nhận “một em trai đầu lòng” là linh mục Maurice Barthélémy Bellière đi truyền giáo bên Alger, Phi Châu (TMTH trang 495), và em trai thứ 2 là cha Adolphe Roulland đi truyền giáo bên Trung Hoa (TMTH trang 500).
4.2 Em cháy bỏng niềm ao ước muốn giải thoát các linh hồn trong tội (TMTH trang 200)
Ngay từ khi được 14 tuổi, chưa đi tu, khi chị hay tin có anh Henri Pranzini 31 tuổi đã giết 2 phụ nữ và một bé gái để cướp của, anh bị kết án tử hình, nhưng anh nhất định không xưng tội và tỏ dấu hối cải nào. Chị biết mình chẳng làm gì được, nhưng cậy nhờ ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu và công phúc của Hội Thánh, chị còn xin lễ cho anh. Thế rồi vào giờ chót trước khi lên máy chém, khi linh mục đưa thánh giá cho anh, anh đã cầm lấy và hôn ba lần (THTM trang 201 -202). Sau khi vào dòng, chị có thêm nỗi lo là số phận của bao người tội lỗi, vô thần, duy vật… Chị phải tham dự vào công cuộc cứu rỗi của Chúa Giêsu và Hội Thánh, chị say mê cầu nguyện rằng: “Xin Chúa cho con được nghiền nát vì cảm thương các tội nhân, vì các linh hồn chung quanh con”. Chị gọi những người tội lỗi là “anh chị em tội lỗi của Giêsu”, và chị cũng gọi họ là ”anh chị em của chị” và xin Chúa “tha thứ cho các anh chị em của chị”. Chị chấp nhận “ăn bánh đau khổ và hoàn toàn không muốn rời khỏi bàn ăn cay đắng nơi những người tội lỗi đáng thương ngồi ăn” (TMTH trang 422- 423) , như Chúa Giêsu xưa đã ngồi cùng bàn với người thu thuế và tội lỗi (Mt 9,10). Đến cuối đời khi đang hấp hối, chị nhìn sang Mẹ Bề trên và nói “chén đắng đã đầy miệng rồi. Không bao giờ con dám tưởng mình có thể chịu đau khổ tới mức này… con chỉ có thể hiểu rằng con chịu được là bởi lòng con rất thiết tha với phần rỗi các linh hồn”.
4.3 Em có ơn gọi làm tông đồ. Em muốn làm nhà truyền giáo
Cầu nguyện cho các linh mục, cho người tội lỗi, chị còn rất thiết tha với việc làm tông đồ: “Em cảm thấy muốn làm chiến binh, linh mục, tông đồ, tiến sĩ, tử đạo… muốn thực hiện mọi công trình anh hùng nhất” (TMTH trang 381)… “Em muốn đi khắp mặt đất, rao giảng danh Chúa Giêsu và trồng cây thập giá vinh hiển của Người trên mãnh đất vô đạo, đồng thời em muốn loan báo Phúc âm trên khắp Năm Châu cho tới tận những hải đảo xa xôi nhất… Em muốn là nhà truyền giáo không phải chỉ trong vài năm, nhưng em muốn là như vậy từ khi có vũ trụ này cho đến tận thế… Em muốn đổ cho tới giọt máu cuối cùng vì Người” (TMTH trang 382). Về cuối đời chị phải vâng lời nữ tu coi sóc chị đi bộ mỗi ngày 15 phút. Thấy chị đi lại quá mệt nhọc, có một chị khuyên: chị nên về nằm nghỉ thì hơn. Chị đáp lại: “Đúng thế. Nhưng chị có biết em lấy sức mạnh ở đâu mà đi được như vậy không? Em đi để cầu nguyện cho một xứ truyền giáo, với ý nghĩ rằng ở nơi xa xăm đó có vị truyền giáo có lẽ đang kiệt sức vì miệt mài lo mở mang Nước Chúa, em muốn dâng lên Chúa những bước đi mệt nhọc này để cho vị tông đồ ấy đỡ mệt mỏi…”.
5. ĐỂ KẾT
Trước tiên là trình bày ý kiến của các vị chủ chăn trong Hội Thánh về Thánh nữ Têrêsa và đường thiêng liêng thơ ấu của chị. Sau sẽ bàn về đường thiêng liêng thơ ấu và và việc Tân Phúc Âm hóa.
5.1. ý kiến của các vị chủ chăn trong Hội Thánh
Đức giáo hoàng Piô XI. Khi phong thánh cho thánh nữ Têrêxa năm 1925 đã nói: “Vị Thánh Têrêxa mới đã thấm nhuần đạo lý Phúc Âm và đã thực hành đạo lý ấy trong đời sống hằng ngày của chị. Hơn nữa, bằng lời nói và gương sáng chị đã dạy con đường thiêng liêng thơ ấu cho các tập sinh trong tu viện, và đã trình bày cho mọi người bằng các tập viết được phổ biến trên khắp thế giới… theo lời chứng của vị tiền nhiệm của chúng tội là đức thánh cha Bênêdictô XV, chị đã học được một khoa học tuyệt vời về những điều siêu nhiệm khiến chị có thể vạch ra cho người khác một con đường cứu rỗi chắc chắn.” Hai năm sau, chị được ngài tôn làm Bổn mạng các xứ truyền giáo (1927).
Đức thánh giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã tấn phong Thánh Têrêsa làm Tiến sĩ Hội Thánh trẻ nhất, mới 24 tuổi, trong số 33 thánh Tiến sĩ Hội Thánh. Khi tuyên phong năm 1997 ngài đã nói “lý do trước tiên thánh nữ là một phụ nữ, rồi là một vị thánh rất trẻ đã sống hầu như cùng thời với chúng ta, và có một ảnh hưởng đối với quần chúng hôm nay”. Thánh nữ không hề cắp sách đến Đại học, không hề dự khóa thần học quy củ nào cũng chẳng có bằng cấp gì.
Đức giáo hoàng Bênêdictô XVI, khi còn làm hồng y đứng đầu Bộ Giáo lý Đức tin, nhân dịp phong Tiến sĩ cho thánh Têrêxa có nói: “Đối với danh hiệu tiến sĩ Hội Thánh tôi nghĩ cần hai tiêu chuẩn cơ bản: sự tỏa sáng thiêng liêng trên khắp thế giới, và chiều sâu giáo thuyết. Chắc chắn thánh nữ Têrêxa đáp ứng đủ hai tiêu chuẩn này”.
Cũng nên nhớ đức đương kim giáo hoàng Phanxicô đã phong chân phước cho ông bà Lu-y Mac-ti-nô, cha mẹ của thánh nữ, vào ngày 19-8-2008 tại Li-xi-ơ.
5.2 Đường thiêng liêng thơ ấu với Tân phúc âm hóa
Toàn Hội thánh đang tiến hành công cuộc Tân phúc âm hóa nghĩa là lấy nhiệt tình mới để vận dụng Phúc âm một cách mới mẻ, phù hợp hơn với con người và xã hội thời nay, những con người đang bị lôi cuốn theo dòng chảy của tục hóa, của vô thần, duy vật, của hưởng thụ, vô cảm… muốn gạt bỏ Thiên Chúa và tình yêu thương của Người; đang gây ra nhiều hậu quả tang thương cho cả thế giới loài người.
Thiên Chúa là tình yêu đã tạo dựng con người giống hình ảnh Người để họ biết yêu Chúa, yêu nhau, sống hạnh phúc với nhau như trong địa đàng. Nhưng ông A-dong và bà E-và, nguyên tổ loài người, đã không muốn vâng phục Chúa, không muốn kết thân với Chúa, khiến cả thế giới loài người trở thành địa ngục trần gian. Tuy nhiên,vì Thiên Chúa luôn yêu thương đã cử Chúa Giêsu xuống trần gian để cứu rỗi loài người bằng con đường vâng phục, hạ mình xuống vác khổ giá và chịu chết, để chứng tỏ tình yêu vô biên và trung tín. Đó chính là Phúc âm của Chúa Giêsu, Phúc âm đã kêu gọi mọi người muốn được hạnh phúc trong Nước Chúa thì phải trở nên như trẻ thơ. Trẻ thơ cốt tại lòng tin cậy và phó thác hết mình cho Chúa.
Như vậy đường thiêng liêng thơ ấu của thánh nữ Têrêxa là con đường nhỏ, là một cách hữu hiệu và phù hợp nhất để Phúc âm hóa con người và xã hội ngày nay, chắc chắn giúp họ thoát khỏi cảnh một thế giới hỗn loạn vô chủ, và sống với nhau theo luật rừng vì không có Chúa…
Thánh nữ Têrêxa đã nghe Lời Chúa, chọn con đường thiêng liêng thơ ấu, để ham mê sống kết thân với Chúa bằng tin cậy, yêu mến, phó thác hoàn toàn cho Chúa, để cầu nguyện cho các linh mục, cầu nguyện cho mọi người tội lỗi, cầu nguyện cho việc Phúc âm hóa. Chị đã hứa: “khi về trời sẽ làm mưa hoa hồng xuống trần gian”. Hoa hồng đây là những ân sủng Chúa ban cho những ai thực hành con đường thiêng liêng thơ ấu với lòng yêu mến và hy sinh. Còn Kitô hữu chúng ta đang đi theo con đường thiêng liêng nào? Có ham mê trở thành đèn sáng, nên muối mặn để phục vụ nhân loại không (Mt 20, 28), hay chỉ ham mê trở thành “ông vua nhỏ” trong giáo phận, trong giáo xứ, trong gia đình, trong xã hội để cai trị (Mt 20, 25).
Xin mượn một đoạn thơ bốn câu trong bài thơ “Bài ca hôm nay của em” của Thánh Têrêxa để kết thúc bài này:
Đời em như gió thoảng
Đời em tựa mây bay
Có chi mà lo lắng,
 Yêu Chúa trọn hôm nay.
(Bản dịch sang thơ Việt của nhà thơ Sảng Đình, cha J.M.Thích).
Lạy thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu, xin mưa hoa hồng xuống trần gian, xin cầu cho chúng con. Amen.
Lễ Thánh Têrêxa 2014
Lm. Antôn Nguyễn mạnh Đồng
Nhà Hưu Dưỡng linh mục Cần Thơ
Read more…

Lễ kính các Tổng Lãnh Thiên Thần

16:10 | Thứ Hai, 29 tháng 9, 2014
Micael, Gabriel, và Raphael  Thiên Thần theo nguyên ngữ là sứ giả. Thánh Grêgôriô thu nhặt nhiều đoạn khác nhau để xếp các Thiên Thần thành 9 phẩm… “Tên các Thiên Thần là danh xưng chỉ các chức phận chứ không chỉ bản tính” (thánh Grêgôriô Cả).

Giáo huấn của Giáo Hội về thế giới thần thiêng rất giản dị và không thay đổi, là có một thế giới như vậy, trong đó gồm có cả thần lành, thần dữ và ảnh hưởng đến thế giới chúng ta.
Trong kinh Tin Kính, chúng ta vẫn tuyên xưng rằng việc tạo dựng được thể hiện gồm có “muôn vật hữu hình và vô hình”. Còn về ảnh hửơng của thế giới vô hình, của các thần thiêng đối với chúng ta, chỉ cần nhớ lại biến cố cám dỗ Eva tại vườn địa đàng và biến cố truyền tin cho Đức Mẹ.
Trong lịch sử như Thánh Kinh trình bày, thế giới thần thiêng được tỏ lộ trong bối cảnh những Thiên Thần đến thế giới này để thi hành thánh ý Thiên Chúa hay để truyền đạt Lời Chúa cho loài người. Thiên Thần theo nguyên ngữ là sứ giả. Thánh Grêgôriô thu nhặt nhiều đoạn khác nhau để xếp các Thiên Thần thành 9 phẩm. Riêng phẩm tổng lãnh được 1Tx 4,16 nhắc đến. Nhưng Thánh Kinh chỉ nêu tên 3 vị tổng lãnh là: Micae, Gabrie, và Raphae mà thôi.
Nhắc đến tên các Ngài, chúng ta cũng cần phải ghi nhớ lời dặn dò của thánh Grêgôriô Cả: “tên các Thiên Thần là danh xưng chỉ các chức phận chứ không chỉ bản tính”.
-  Micae có nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa”.
-  Gabrie có nghĩa là “Uy lực của Thiên Chúa”.
-  Raphae có nghĩa là “Thầy thuốc của Thiên Chúa”.
Lần dở lại Thánh Kinh, chúng ta sẽ thấy rõ phận vụ mỗi đấng thực hiện và dĩ nhiên các phận vụ ấy liên quan đặc biệt đối với loài người chúng ta.
Người Do Thái vẫn coi Tổng lãnh Thiên Thần Micae là đấng bảo trợ đặc biệt. Trong Kitô giáo, Ngài cũng là đấng bảo trợ đặc biệt Giáo Hội. Chúng ta coi Ngài là đấng thống soái đạo binh trên trời, dựa theo lời kể của thánh Gioan:
“Một cuộc chiến dữ dội xảy ra trên trời, Tổng lãnh Thiên Thần Micae cùng với các đồng bạn giao chiến cùng con rồng, con rồng và các đồng đảng chống lại mãnh liệt. Song chúng không sao thắng nổi và chúng mất địa vị trên trời. Con rồng lớn tức là con rắn xưa kia, thường gọi là ma quỉ hay là satan. Kẻ lừa dối thiên hạ, bị quăng xuống đất cùng với đồng đảng của nó” (Kh 12,7-9).
Tổng lãnh Thiên Thần Gabrie được sai đến với Đức trinh nữ Maria ở Nazareth để nói rõ cho Mẹ biết định mệnh của Mẹ (Lc 1,23). Ngài cũng đến với Zacaria để nói cho biết việc sinh hạ của Gioan tẩy giả (Lc 1,11-19). Chính Ngài đã tiên báo cho Daniel biết việc Đấng thiên sai đến (Dn 9,21). Nay Ngài được nhận làm đấng bảo trợ của nhân viên bưu điện và điện thoại.
Tổng lãnh Thiên Thần Raphae là một trong bảy vị tổng lãnh hầu cận trước nhan Thiên Chúa. Ngài đã thực hiện phận vụ này trong câu chuyện Tôbia, sau khi Ngài giữ gìn trẻ Tôbia trong một cuộc hành trình xa và khi được chữa lành cho Tôbia cha được sáng mắt. Trong Tân ước, Tổng lãnh Thiên Thần Raphael được đồng hoá với vị Thiên Thần đã khuấy nước trong hồ gần Giêrusalem và lại xuống hồ trước tiên khi nước mới sủi lên, thì bất cứ mắc bệnh tật gì đều được khỏi cả (Ga 5,1-4).

Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Read more…

Những tranh cãi chung quanh việc lãnh nhận các bí tích của người Công Giáo đã ly dị và tái hôn - Đề nghị của Đức Hồng Y Kasper

06:53 | Thứ Hai, 29 tháng 9, 2014
Một giám mục Tây Ban Nha cho báo chí biết rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói trực tiếp với các Giám Mục Tây Ban Nha rằng ngài không thể thay đổi giáo huấn của Giáo Hội để cho phép những người Công Giáo đã ly dị và tái hôn được rước lễ.
Đức Giám Mục Demetrio Fernandez của giáo phận Cordoba, Tây Ban Nha nói với nhật báo Diario Cordoba là trong chuyến ad-limina viếng mộ hai Thánh Tông Đồ Phêrô, Phaolô và thăm Tòa Thánh, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp các vị Giám Mục Tây Ban Nha hôm 7 tháng 3 năm 2014. Trong cuộc gặp gỡ này các Giám Mục Tây Ban Nha đã đề cập với Đức Thánh Cha về “đề nghị của Đức Hồng Y Kasper” (được cho là sẽ mở ra khả năng cho người Công Giáo đã ly dị và tái hôn được rước lễ).
Đức Cha Demetrio Fernandez nói:
"Chúng tôi hỏi trực tiếp Đức Giáo Hoàng, và ngài trả lời rằng một người đã kết hôn trong Giáo Hội đã ly dị và dự phần vào một cuộc hôn nhân mới không thể lãnh nhận các bí tích."
Đức Thánh Cha nói thêm rằng giáo huấn của Giáo Hội về vấn đề này đã được thiết lập rõ ràng, theo huấn lệnh của Chúa Giêsu, và không thể thay đổi.
Đức Giám Mục Fernandez nói rằng ngài thấy có nghĩa vụ phải tiết lộ nhận xét của Đức Giáo Hoàng "vì trong thời gian gần đây người ta nói rằng tất cả mọi thứ sẽ thay đổi, nhưng có một số điều chúng ta không thể đổi thay."
“Đề nghị của Đức Hồng Y Kasper”
Đức Cha Demetrio Fernandez đã nêu lên một nhận xét rất đúng là trong thời gian gần đến ngày khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình, nhiều cơ quan truyền thông đã tung ra nhiều thứ tin giật gân, trong đó có vấn đề “đề nghị của Đức Hồng Y Kasper”. Thực chất là Đức Hồng Y Kasper đã nêu ra vấn đề nhưng ngài không có một “đề nghị” cụ thể nào.
Hôm 20 tháng Hai Đức Thánh Cha Phanxicô đã khởi sự Công Nghị Hồng Y đầu tiên trong triều đại giáo hoàng của ngài. Sau khi chào hỏi nhau, Đức Giáo Hoàng và các vị Hồng Y đã bắt đầu ngay một ngày làm việc dài và căng thẳng. Chủ đề chính của cuộc thảo luận của các vị cũng là một trong những mối quan tâm chính của Giáo Hội: đó là thực trạng của gia đình ngày nay.
Tham dự Công Nghị Hồng Y này có tất cả các Hồng Y trên thế giới đang có mặt tại Rôma kể cả 19 vị sẽ được tấn phong vào hai ngày sau đó, tức là ngày 22 tháng Hai.
Đức Hồng Y Walter Kasper là người phát biểu đầu tiên và ngài đề cập đến một vấn đề gai góc là vấn đề bí tích đối với những người Công Giáo đã ly dị và tái hôn. Trước một vấn đề gai góc như thế, Đức Thánh Cha Phanxicô đã yêu cầu Đức Hồng Y Walter Kasper chỉ nêu vấn đề cho các vị Hồng Y thảo luận và không đưa ra một đề nghị giải quyết cụ thể nào. Và nhà thần học người Đức đã làm như vậy.
Những ý chính trong bài phát biểu dài của ngài có thể tóm lược như sau:
- Giáo Hội không thể đặt câu hỏi về những lời của Chúa Giêsu đối với tính chất bất khả phân ly của hôn nhân. Bất cứ ai hy vọng công nghị và Thượng Hội Đồng Giám Mục sẽ đưa ra một giải pháp tổng thể, "dễ dàng", được áp dụng cho tất cả mọi người, là sai lầm.
- Tuy nhiên, do những khó khăn mà gia đình ngày nay phải đối mặt và sự gia tăng đông đảo các cuộc hôn nhân thất bại, những con đường mới có thể được thăm dò để đáp ứng các nhu cầu tâm linh sâu xa của những người đã ly dị và tái hôn nếu họ nhận ra sai lầm của họ, hoán cải và sau một thời gian sám hối chân thành mong được đón nhận cách nào đó các bí tích.
- Quan trọng nhất là Đức Hồng Y Kasper mời gọi các vị Hồng Y xem xét các vấn đề của người ly dị và tái hôn từ quan điểm của những người đau khổ và chân thành xin giúp đỡ. Họ phải được khuyến khích tham gia vào đời sống Giáo Hội.
- Trong thực tế, có những trường hợp mà hiển nhiên rằng mọi nỗ lực cứu vãn cuộc hôn nhân đã thất bại. Có cả những trường hợp bị người phối ngẫu bỏ rơi. Thật là anh hùng khi người vợ hay người chồng bị người phối ngẫu của mình bỏ rơi vẫn tiếp tục sống đơn độc một mình để nuôi con. Nhưng cũng có những trường hợp những người bị bỏ rơi đành chấp nhận bước thêm bước nữa cũng vì lợi ích của con cái của họ.
- Giáo Hội không thể đưa ra một giải pháp ngược lại với giáo huấn của Chúa Giêsu. Không thể dựa vào lòng thương xót mà chuẩn chước cho tính chất bất khả phân ly của bí tích hôn phối. Không thể dựa vào lòng thương xót để tháo thứ cho phép một người tham gia vào một kết hiệp hôn nhân mới trong khi người phối ngẫu cũ vẫn còn sống. Lòng thương xót và sự trung thành với đạo lý Công Giáo phải đi đôi với nhau.
- Tuy nhiên, Đức Hồng Y Kasper nhận định rằng theo Bộ Giáo Luật 1917, những người ly dị và tái hôn được xem là đa thê hay đa phu, là gương mù và thậm chí có thể bị vạ tuyệt thông. Bộ luật mới do Đức Gioan Phaolô II ban hành không đi kèm với những hình phạt: người ly dị và tái hôn không bị vạ tuyệt thông, trong thực tế, họ vẫn được xem là thành viên của Giáo Hội. Theo Đức Hồng Y Kasper, Giáo Hội ngày nay cũng thấy mình trong một tình huống tương tự như những gì đã xảy ra trong thời kỳ Công đồng Vatican II. Vì vậy, ngài tự hỏi liệu có một cách nào đó thay đổi tình hình của những người ly dị và tái hôn nhưng vẫn giữ được truyền thống cốt lõi của đức tin.
Trong phiên họp thứ Hai diễn ra một ngày sau bài phát biểu của Đức Hồng Y Kasper, Đức Thánh Cha đã bắt đầu buổi họp với những nhận xét sau về bài thuyết trình dẫn nhập của Đức Hồng Y Walter Kasper.
"Hôm qua, trước khi ngủ, không phải là ngủ gật, tôi đã đọc đi đọc lại những nhận xét của Đức Hồng Y Kasper. Tôi muốn cảm ơn ngài, vì tôi tìm thấy một thần học sâu sắc, và những tư tưởng thanh thản trong thần học. Thật tốt đẹp khi đọc thần học thanh thản. Nó đã làm tôi phấn chấn và nảy sinh ra ý tưởng này, xin Đức Hồng Y tha thứ cho tôi nếu tôi làm ngài xấu hổ, nhưng ý nghĩ của tôi là: đây được gọi là suy tư thần học trong khi quỳ gối - Cảm ơn Đức Hồng Y rất nhiều."



Đặng Tự Do
Nguồn: Giaophanvinh.org
Read more…

ĐTC: Đời Kitô hữu đừng như bọt xà phòng

06:15 | Thứ Hai, 29 tháng 9, 2014
Theo news.va- Khởi đi từ bài đọc I, “Phù vân của mọi sự phù vân! Mọi sự chỉ là phù vân!” Hôm qua, 25.09, Đức Thánh Cha Phanxicô đã dựa vào câu trên để khai triển bài giảng nói về sự cám dỗ nơi người Kitô hữu cảm thấy “tự hào” khi làm việc tốt.
Read more…

Nhận thức Ơn Thiên Triệu

18:55 | Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2014
Nhận thức ơn gọi – nhất là ơn gọi linh mục – là gì? Mỗi khi các chủng sinh bước vào niên học mới và tái quyết định trở thành linh mục, rất nhiều thanh niên Công giáo tiếp tục công việc đã đưa họ tới chủng viện: Nhận thức ơn thiên triệu linh mục. Họ tiếp tục được giúp đỡ từ bạn bè, gia đình, các vị linh hướng và các vị hữu trách đào tạo.
Read more…

Hạt kinh bên đời

19:03 | Thứ Ba, 23 tháng 9, 2014

Mỗi hạt kinh trong đó không biết có bao tâm tình ký thác. Có hạt buồn rơi, khóc cho người con hoang đàng, tội lỗi. Có hạt khóc rơi cho lòng ăn năn. Có hạt xen lẫn âu lo, nỗi buồn. Có hạt mang niềm tin yêu và hạnh phúc. Mỗi hạt là những chiêm nghiệm của đời sống qua Mẹ Maria đến với Chúa.
Read more…

Đức Thánh Cha lên án lạm dụng danh Thiên Chúa để giết người

18:36 | Thứ Hai, 22 tháng 9, 2014
TIRANA. ĐTC Phanxicô mạnh mẽ lên án những kẻ lạm dụng danh Thiên Chúa để giết người và gọi đó là hành động phạm thánh trầm trọng nhất.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong cuộc gặp gỡ các vị lãnh đạo tôn giáo ở Albani tại trụ sở Đại Học Công Giáo ”Đức Bà chỉ bảo đàng lành”, ở Tirana, thủ đô Albani, chiều chúa nhật 21-9-2014.

Tham dự cuộc gặp gỡ có 6 Cộng đoàn tôn giáo chính ở Albani, gồm Hồi giáo, Huynh đoàn Hồi giáo Bektashi, Công Giáo, Chính Thống, Tin Lành và Do thái giáo. Mỗi vị lãnh đạo có 3, 4 người tháp tùng. Ngoài ra có các GM Công Giáo Albani và các vị trong đoàn tùy tùng của ĐTC.
Read more…

Nguyên nhân làm Đức Tin chết nghẹt

08:44 | Thứ Hai, 22 tháng 9, 2014
Chúng ta biết rằng không có Đức Tin thì không ai khả dĩ nhận biết Thiên Chúa, thật vậy sao? Vâng, lý do hoặc nguyên nhân có thể đưa chúng ta đi rất xa, nhưng chỉ có đức tin là “người thầy” dạy chúng ta biết tín thác vào Thiên Chúa, tin ngay cả khi cuộc đời chúng ta bị đảo lộn, coi như “bó tay” và thua trắng. Với kinh nghiệm bản thân, tác giả Thánh Vịnh chân thành chia sẻ: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37:5).
Read more…

Đức Thánh Cha tiếp kiến 94 Giám Mục mới thuộc các xứ truyền giáo

10:49 | Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2014
VATICAN. ĐTC khích lệ các GM thực thi sự ”hoán cải truyền giáo”, sống và hành động giữa Dân Chúa như những người phục vụ.
Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến dành cho 94 GM thuộc 49 quốc gia, thụ phong trong thời gian gần đây, vừa kết thúc khóa bồi dưỡng 2 tuần lễ ở Roma, do Bộ truyền giáo tổ chức. Trong số các vị có 4 GM Phụ Tá của Việt Nam: Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo (Xuân Lộc), Đức Cha Anphongsô Nguyễn Hữu Long (Hưng Hóa), Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Viên (Vinh) và Đức Cha Giuse Trần Văn Toản (Long Xuyên).
Read more…

Lý Lẽ Của Trái Tim

07:00 | Thứ Bảy, 20 tháng 9, 2014
Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận của người đời. Không tìm lợi lộc cho bản thân nhưng lo tìm hạnh phúc cho người khác. Không trọng sang khinh hèn, nhưng để ý yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội….
Read more…

Thiên Chúa viếng thăm dân Người (16.9.2014 – Thứ ba Tuần 24 Thường niên)

12:55 | Thứ Ba, 16 tháng 9, 2014
Lời Chúa: Lc 7, 11-17
Khi ấy, Ðức Giêsu đi đến thành kia gọi là Nain, có các môn đệ và một đám người rất đông cùng đi với Người. Khi Ðức Giêsu đến gần cửa thành, thì kìa người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có đám rất đông người trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!” Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Ðức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!” Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Ðức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. Lời này được đồn ra trong khắp cả miền Giuđê và vùng lân cận.
Suy nim:
Thánh Luca đã viết câu chuyện này như một người quay phim.
Ngài bắt đầu từ cảnh Đức Giêsu và các môn đệ cùng đi với một đám đông.
Thầy trò và mọi người đang trên đường tiến vào thành Nain.
Khi gần đến cửa thành thì lại gặp một đám đông khác đi ra.
Đây là một đám tang lớn có đông người theo ra mộ.
Sau đó là cận cảnh Đức Giêsu gặp bà mẹ của người chết.
Cuối cùng trở lại với cảnh của hai đám đông kinh sợ ngỡ ngàng,
và câu chuyện kỳ diệu lan ra khắp Giuđê và các vùng lân cận.
Chuyện Đức Giêsu gặp đám tang là chuyện tình cờ trên đường.
Nhưng điều đánh động trái tim Ngài lại không phải là chuyện người chết,
dù anh thanh niên này chết khi còn cả một tương lai.
Điều thu hút cái nhìn và mối quan tâm của Đức Giêsu chính là bà mẹ.
Đó là một bà góa không còn chỗ nương tựa.
Bà đã dự đám tang của người chồng.
Và bây giờ bà lại dự đám tang của đứa con trai duy nhất.
Chỗ dựa còn lại và cuối cùng cũng bị lấy đi.
Đức Giêsu hiểu rất nhanh về nỗi đau của người phụ nữ.
Bà biết mình bị trắng tay cả về tình cảm lẫn vật chất.
Có lẽ bà đã nhiều lần tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu?
Đức Giêsu trông thấy bà, thấy nỗi đau và nước mắt.
Ngài bảo: Bà đừng khóc nữa (c. 13).
Dường như Ngài không có khả năng chịu được nước mắt của người khác.
Khi thấy cô chị Maria khóc em là Ladarô đã chết (Ga 11, 33),
Đức Giêsu đã thổn thức và xao xuyến, rồi Ngài bật khóc (Ga 11, 34).
Sau này Ngài hỏi chị Maria Mađalêna khóc bên mộ vì mất xác Thầy:
Này bà, tại sao bà khóc? (Ga 20, 15).
Đức Giêsu hiểu rõ nỗi đau của sự chia ly bởi cái chết.
Ngài cũng hiểu rõ về nước mắt của phận người, dù vì bất cứ lý do gì.
Nhiệm vụ của Ngài là lau khô nước mắt và làm cho con tim vui trở lại.
Đức Giêsu đã chạm đến quan tài, hay đúng hơn,
chạm vào cái cáng khiêng xác được chôn theo kiểu người Do Thái.
Ngài nói với anh như ra lệnh: Tôi bảo anh, hãy trỗi dậy (c.14).
Anh thanh niên ngồi dậy và bắt đầu nói: anh đã được hoàn sinh.
Như Êlia ngày xưa, Ngài trao anh cho bà mẹ (1 V 17,23).
Ai là người vui nhất? Bà mẹ, người con, đám đông, hay Đức Giêsu?
Có lẽ là Đức Giêsu, người đã đem lại hạnh phúc cho người khác.
Khi đứa con lao vào vòng tay mẹ,
khó lòng Ngài giấu được giọt nước mắt vì vui.
Đám đông kêu lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (c.16).
Thiên Chúa không chỉ thăm dân Do Thái qua Đức Giêsu (Lc 1, 68.78; 19, 44),
Chương trình làm việc mỗi ngày của Ngài là thăm cả thế giới.
Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn đến thăm tôi qua bao người khác,
và Ngài muốn tôi đi thăm để lau khô nước mắt cho người bạn gần bên.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương.
Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch,
và bầu trời vắng tiếng chim.
thì đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,
vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,
bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời,
bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,
vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.
Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi.
Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ở Belem,
Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu.
Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.
Đó là lỗi của chúng con.
Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem,
xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa
để yêu trái đất lạnh giá này hơn,
và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
Nguồn: dongten.net
Read more…

Linh mục Giuse Đào Nguyên Vũ, SJ – Tân Tổng thư ký Uỷ ban Mục vụ Di dân – Hội đồng Giám mục Việt Nam

12:53 | Thứ Ba, 16 tháng 9, 2014
 Ngày 30-08-2014, Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh, giám mục giáo phận Thanh Hoá, Chủ tịch Uỷ ban Mục vụ Di dân trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, đã ký quyết định số 01/BN-2014 bổ nhiệm linh mục Giuse Đào Nguyên Vũ, S.J. làm Tổng thư ký của Ủy ban.
Dưới đây là đôi nét tiểu sử Tân Tổng Thư ký Ủy ban Mục vụ Di dân và văn thư bổ nhiệm của Đức Cha Chủ Tịch Ủyban Mục vụ Di dân:
Trước khi sang Mỹ, thầy Giuse Đào Nguyên Vũ là sinh viên quốc tế ngành luật và ước mong trở thành một phóng viên
- Năm 22 tuổi, thầy xin vào dòng Tên. Thầy đến Long Beach, California tại USA để học sinh ngữ tại trường Santa Ana
- Năm 2000, thầy vào nhà tập của dòng Tên tại thành phố Culver California. Sau đó thầy tốt nghiệp cử nhân về Thần học và Triết học tại đại học Loyola Chicago
- Sau khi tốt nghiệp, thầy về Việt Nam làm đại diện cho trường đại học Loyola Chicago, có văn phòng đặt tại số 6bis, Tôn Đức Thắng, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh trong vòng 3 năm
- Năm 2010, thầy phục vụ tại trường trung học Loyola ở Angeles, sau đó tốt nghiệp thạc sĩ Thần học tại đại học Theology
- Ngày 07/6/2014, thầy lãnh nhận tác vụ linh mục, và nhận bài sai về phục vụ tại Việt Nam


Nguồn: dongten.net
Read more…

Đức Thánh Cha Phanxicô thiết lập Lễ nhớ hai thánh giáo hoàng Gioan XXIII và Gioan Phaolô II

17:19 | Thứ Hai, 15 tháng 9, 2014
WHĐ (13.09.2014) – Thể theo quyết định của Đức Thánh Cha Phanxicô, Đức hồng y Cañizares Llovera, Bộ trưởng Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích đã ký Sắc lệnh ngày 26-05-2014, về việc ghi tên hai Thánh giáo hoàng Gioan XXIII và Gioan Phaolô II vào lịch phụng vụ chung của Giáo hội, và ấn định bậc "lễ nhớ không buộc" (gra­du memoriae ad libitum) dành cho hai vị thánh này.
Lễ nhớ Thánh giáo hoàng Gioan XXIII mừng vào ngày 11 tháng Mười (không phải 03 tháng Sáu như đã ghi trong Sổ bộ các thánh Roma sau lễ tôn phong Chân phước của ngài). Ngày 03 tháng Sáu là ngày Đức Gioan XXIII qua đời, tức là sinh nhật trên trời; và ngày này thường được chọn để mừmg lễ một vị thánh. Còn ngày 11 tháng Mười là ngày kỷ niệm khai mạc Công đồng Vatican II (năm 1962) tại Đền Thánh Phêrô. Công đồng này là công trình vĩ đại và gây nhiều ngạc nhiên của một giáo hoàng chỉ mới bắt đầu thừa tác vụ Phêrô vào 4 năm trước đó, khi đã gần 77 tuổi.
Lễ nhớ Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II mừng vào ngày 22 tháng Mười, ngày kỷ niệm lễ nhậm chức giáo hoàng của ngài (năm 1978). Ngày này đã được ấn định từ khi Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI tôn phong chân phước cho ngài vào ngày 01 tháng Năm 2011.
Và L'Osservatore Romano số ra ngày 12 tháng Chín 2014 đã đăng sắc lệnh của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích, cùng với các bản văn phụng vụ của Lễ nhớ Thánh giáo hoàng Gioan XXIII. Bản văn phụng vụ Lễ nhớ Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã được công bố trước đó.
Minh Đức
Nguồn: WHĐ
Read more…

Đức Thánh Cha phê bình thái độ ”sống chết mặc bay” trước thảm cảnh chiến tranh

17:14 | Thứ Hai, 15 tháng 9, 2014
REDIPUGLIA - Sáng 13-9-2014, ĐTC Phanxicô tái lên án sự điên rồ của chiến tranh; sự tham lam tiền bạc, bất bao dung, và sự ham hố tiền bạc, dẫn đến chiến tranh.
Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi viếng thăm và cử hành thánh lễ lúc gần 10 giờ sáng tại nghĩa trang quân đội Redipuglia nhân dịp kỷ niệm 100 năm thế chiến thứ I bùng nổ.
Đây là nghĩa trang quân đội lớn nhất ở Italia, ở mạn đông bắc giáp giới với Cộng hòa Slovenia và là nơi có mộ của hơn 100 ngàn binh sĩ Italia.
ĐTC đã đáp máy bay từ Roma lúc 8 giờ sáng và khi đến nơi, ngài viếng thăm trước tiên nghĩa trang Áo Hung nơi có mộ của gần 14.500 binh sĩ tử trận thuộc nước Áo, Hungari và nhiều nước khác. Ngài cầu nguyện và đặt vòng hoa tưởng niệm. Tiếp đến, ĐTC tới đài tưởng niệm và nghĩa trang Redipuglia để cử hành thánh lễ.
Đồng tế với ĐTC có gần 100 GM Italia và các nước khác, cùng với một số LM tuyên úy quân đội. Trong số hàng chục ngàn người hiện diện trước lễ đài dưới trời mưa, có các giới chức chính quyền và quân đội Italia và nước ngoài, và các tín hữu.
Toàn văn bài giảng của ĐTC:
"Sau khi chiêm ngắm vẻ đẹp cảnh trí toàn vùng này, nơi mà những người nam nữ làm việc để nuôi dưỡng gia đình, nơi các trẻ em chơi đùa và người già mơ ước.. khi ở nơi này, tôi chỉ tìm được lời này để nói: chiến tranh là một sự điên rồ.
"Trong khi Thiên Chúa làm cho công trình sáng tạo của ngài tiến triển, và loài người chúng ta được mời gọi cộng tác vào công trình của Chúa, thì chiến tranh tàn phá. Nó tàn phá cả điều đẹp nhất mà Thiên Chúa đã tạo dựng là con người. Chiến tranh đảo lộn tất cả, kể cả liên hệ giữa anh chị em với nhau. Chiến tranh là điên rồ, kế hoạch phát triển của nó là tàn phá: nó muốn phát triển bằng cách tàn phá!
"Lòng tham lam, bất bao dung, ham hố quyền lực.. đó là những động lực thúc đẩy đi tới quyết định chiến tranh, và những động lực ấy thường được biện minh bằng một ý thức hệ; nhưng trước tiên có một sự đam mê, một động lực sai trái. Ý thức hệ là một biện minh, và khi không có ý thức hệ, thì có câu trả lời của Cain: "Có liên hệ gì tới tôi đây?", "Tôi đâu có phải là người canh giữ em tôi?" (St 4,9). Chiến tranh chẳng nể ai một ai: người già, trẻ em, các bà mẹ, người cha... "Có hệ gì tới tôi đâu?"
"Trên cổng vào nghĩa trang này, phất phới khẩu hiệu chế nhạo của chiến tranh "Có hệ gì tới tôi đâu?". Tất cả những người có di hài đang an nghỉ tại đây, đã có từng có những dự phóng, những ước mơ.. nhưng cuộc sống của họ đã bị đốn ngã. Nhân loại nói: "Có hệ gì tới tôi đâu?"
"Cả ngày nay, sau sự thất bại của một cuộc thế chiến khác, có lẽ người ta có thể nói về một cuộc chiến thứ ba đang được chiến đấu "từng mảnh", với những tội ác, những cuộc tàn sát, những cuộc tàn phá...
Nói đúng ra, trang đầu tiên của các báo phải có tựa đề "Có hệ gì tới tôi đâu?". Cain nói: "Tôi có phải là người canh giữ em tôi đâu?".
"Thái độ ấy hoàn toàn trái ngược thái độ mà Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta trong Phúc Âm. Chúng ta đã nghe: Chúa ở trong người anh em bé nhỏ nhất: Ngài là Vua, là Thẩm Phán xét xử thế gian, là người đói, khát, là ngoại kiều, người bệnh, là tù nhân... Ai săn sóc người anh em thì được vào trong niềm vui của Chúa; trái lại ai không làm như vậy, người nào bỏ sót và nói "Có hệ gì tới tôi đâu?", thì phải ở ngoài.
"Ở đây có bao nhiêu nạn nhân. Hôm nay chúng ta tưởng niệm họ. Khóc thương và đau lòng. Từ nơi đây, chúng ta tưởng niệm tất cả các nạn nhân của mọi cuộc chiến tranh.
"Ngày nay cũng có bao nhiêu nạn nhân.. làm sao điều này có thể xảy ra? Nó có thể xảy ra được vì cả ngày nay, ở hậu trường, có những lợi lộc, có những kế hoặc chính trị địa lý, có lòng ham hố tiền bạc và quyền hành, và có công nghệ võ khí, dường như là rất quan trọng!
"Và những kẻ đề ra những kế hoạch kinh hoàng ấy, những kẻ xách động các cuộc xung đột, cũng như các chủ hãng chế võ khí, đã ghi vào tâm hồn họ câu "Có hệ gì tới tôi đâu?"
Và chính những người khôn ngoan nhận ra các lỗi lầm, cảm thấy đau khổ, thống hối, xin tha thứ và khóc lóc.
Với câu "Có hệ gì tới tôi đâu?" mà những doanh nhân chiến tranh đã ghi trong lòng, có lẽ họ kiếm được rất nhiều tiền, nhưng con tim hư hỏng của họ đã mất khả năng khóc. Câu "Có hệ gì tới tôi đâu?" làm cho họ không khóc được. Cain không khóc. Bóng đen của Cain vẫn còn che phủ chúng ta ngày nay, tại nghĩa trang này. Chúng ta thấy nó ở đây. Ta thấy trong lịch sự từ năm 1914 đến ngày nay. Ta cũng thấy trong những ngày này.
Và ĐTC kết luận rằng:
"Với tâm hồn của người con, người anh, người cha, tôi cầu xin cho tất cả anh chị em, và cho tất cả chúng ta ơn hoán cải tâm hồn: đi từ thái độ "Có hệ gì tới tôi đâu?", tới thái độ khóc lóc. Khóc cho tất cả những người đã ngã gục vì "cuộc thảm sát vô ích", khóc cho tất cả những nạn nhân của chiến tranh điên rồ, trong mọi thời đại. Nhân loại đang cần khóc lóc, và đây là giờ để khóc."
Cuối thánh lễ, Bà Bộ trưởng quốc phòng Italia, và các vị tư lệnh quân đội, đã trao tặng ĐTC một bàn thờ "dã chiến" được một LM tuyên úy dùng để dâng thánh lễ trong thế chiến thứ I. Ngoài ra vị Tổng tham mưu trưởng quân đội Italia đã tặng ĐTC bản sao giấy đăng ký của Ông nội của ngài, Gioan Bergoglio, một trong 31 ngàn sĩ quan của Italia đã chiến đấu trong thế chiến thứ I.
Tiếp đến ĐTC đã trao cho các GM hiện diện mỗi vị một cái đèn và dầu từ miền Assisi như biểu tượng ánh sáng hòa bình. Đèn do Tu viện Phanxicô ở Assisi và dầu do Hiệp hội cha Luigi Ciotti tặng để thắp sáng trong các buổi lễ tượng niệm thế chiến thứ I cử hành ở các địa phương.
Sau thánh lễ, ĐTC đã đáp máy bay trở về Roma vào lúc gần một giờ trưa cùng ngày. (SD 13-9-2014)
G. Trần Đức Anh OP
Radiovatican
Nguồn: tgphanoi.org
Read more…
Trang 1 / 2512345...25»