Ơn gọi của Tara Clemens, một luật sư trẻ, trở thành nữ tu dòng kín Đaminh

18:05 | Thứ Ba, 27 tháng 6, 2017

Ơn gọi của Tara Clemens, một luật sư trẻ, trở thành nữ tu dòng kín Đaminh Trong một thế giới mà ơn gọi tu trì ngày càng giảm sút, đời sống tu trì, đối với nhiều người, có vẻ buồn chán, khác người, cực khổ, đi ngược với mong ước sống tự do, hưởng thụ của thế giới hiện đại, thì vẫn luôn có những ơn gọi thật đẹp, là dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, là bằng chứng của sự tin yêu, đáp lại tiếng Chúa mời gọi, và cũng là chứng tá của những tấm lòng quảng đại, hy sinh, dưới mọi hình thức, để vun trồng ơn gọi tu trì.
Ơn gọi của Tara Clemens, hiện nay là sơ Maria Đaminh Nhập thể, cũng là một ơn gọi “khác người” nhưng thật đẹp; từ một luật sư trẻ, Clemens đã nghe theo tiếng Chúa gọi, tận hiến cho Ngài trong đời tu, và đặc biệt hơn nữa, cô đã chọn đời sống đan tu, chuyên lo việc chiêm niệm cầu nguyện.
Tara Clemens là một luật sư ở thành phố Anchorage, bang Alaska, Hoa kỳ. Clemens nguyên là một tín hữu Tin Lành, và chỉ vài tháng trước khi tốt nghiệp trường luật, cô đã gia nhập Giáo Hội Công Giáo.
Việc trở thành tín hữu Công Giáo xảy ra khá là bất ngờ với Clemens. Chỉ vài tháng trước khi tốt nghiệp đại học luật Lewis và Clark ở thành phố Portland, bang Oregon, Clemens đi cùng một người bạn, tham dự Thánh Lễ thứ sáu Mùa Chay, và ngày hôm đó. là môt bước ngoặt trong cuộc đời của cô: Clemens đã quyết định trở lại Công giáo.
Ba tháng sau đó, dù phải làm việc toàn thời gian, mỗi chiều tối, Clemens theo học về Công Giáo. Một ít tháng sau, vào dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống năm 2007, Clemens hoàn toàn tin vào chân lý của Công Giáo. Clemens đã được gia nhập Giáo Hội Công Giáo vào dịp lễ Vọng Phục sinh năm 2008. Và vài tháng sau đó, dù chưa bao giờ có ý nghĩ sẽ trở thành nữ tu, cô luật sư trẻ Clemens đã đến thăm đan viện Thánh Thể. Clemens đã sống hai năm rưỡi tại đan viện, trước tiên là thỉnh sinh, và sau đó vào nhà tập. Ngày 28 tháng 5 vừa qua (năm 2017), Clemens được tuyên khấn lần đầu tại đan viện Thánh Thể của các nữ tu Đaminh ở Menlo Park, bang California, Hoa kỳ, với tên dòng là Maria Đaminh Nhập thể.
Ngày sơ Maria Đaminh được đội chiếc lúp đen trên đầu thay cho chiếc lúp trắng khi vào nhà Tập cách đây hơn một năm, vị linh mục chủ tế đã nói: “Hãy nhận lấy tấm lúp thánh này, qua đó con có thể được nhận ra như ngôi nhà cầu nguyện dành cho Chúa và đền thờ cầu nguyện cho mọi người”. Sơ Maria Đaminh ý thức được rằng trung tâm của đời sống chiêm niệm của các nữ đan sĩ Đaminh là tình yêu Chúa. Dù là một đan sĩ sống giam mình trong đan viện, không bao giờ đi ra ngoài, sơ vẫn có thể ôm trọn thế giới với tình yêu và cầu nguyện cho thế giới.
Được hỏi về việc trở thành một đan sĩ, sơ Maria Đaminh xác định: “Khi Thiên Chúa gọi chúng ta, Ngài rất kiên định”. Điều này được chứng thực trong hành trình ơn gọi của sơ Maria Đaminh.
Khi luật sư Clemens có ý định đi tu, nhưng vì số tiền hơn 100 ngàn đô la cô mượn để đi học quá lớn, và cô chưa thể thanh toán để vào nhà dòng, cô hầu như thất vọng trước khó khăn thách đố này. Chính khi đó, hội Laboure đã giúp cho Clemens giải quyết vấn đề nợ sinh viên để có thể đi tu. Laboure là một hội có trụ sở ở Minnesota, giúp đỡ cho những người có ơn gọi tu trì trả nợ, điều cản trở họ gia nhập đời tu. Hội Laboure mở một lớp khoảng từ 10 đến 25 người, những người tin là mình có ơn gọi, và tổ chức chiến dịch quyên góp giúp họ. Clemens tham dự chương trình này 2 năm.
Vào cuối khóa, cô tưởng rằng phải đợi thêm một năm nữa vì không nhận được đủ tiền quyên góp để trả nợ học. Nhưng rồi đã có hai vị ân nhân đóng góp số tiền lớn và Clemens đã được giúp trả nợ tiền học.
Như John Flanagan, giám đốc điều hành hội Laboure đã nói: “Tara Clemens đã không thực hiện hành trình ơn gọi một mình, nhưng nhiều người khắp nơi biết là họ đã làm điều gì đó để giúp Tara Clemens trở thành nữ tu Maria Đaminh”. Và ông nhận xét rằng: “Cô ta đã gập phải những khó khăn trên hành trình theo đuổi ơn gôi, nhưng cô đã đón nhận chúng với niềm tin tưởng lớn lao vào Thiên Chúa” (CNS 13/06/2017).
Hồng Thủy
Read more…

Thiên Chúa không thể không có con người

10:35 | Thứ Năm, 8 tháng 6, 2017
Chúng ta có thể xa vắng, thù nghịch, chúng ta cũng có thể xưng mình “không có Thiên Chúa”, nhưng Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô vén mở cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa không thể không có chúng ta: Ngài sẽ không bao giờ là một vì Thiên Chúa không có con người. Đó là niềm hy vọng mà chúng ta tìm thấy được duy trì trong tất cả mọi lời cầu của Kinh Lậy Cha, một lời cầu cách mạng tâm lý tôn giáo của con người.
ĐTC Phanxicô đã nói như trên vói 40.000 tín hữu hành hương trong buổi tiếp kiến CHUNG sáng thứ tư hôm qua. Trong số các nhóm hiện diện cũng có hai nhóm tín hữu Việt Nam do hai cha Nguyễn Tầm Thường và Bùi Trọng Biên hướng dẫn. Ngoài ra cũng có một số tín hữu đi riêng không theo phái đoàn.
Trong bài huấn dụ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa đoạn phúc âm theo thánh Luca (11,1-4) kể lại việc Chúa Giêsu dạy các môn đệ Kinh Lậy Cha. Thánh Luca viết: “Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông." Người bảo các ông: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói:
"Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Nước Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ." (Lc 11,1-4).
ĐTC nói: có cái gì đó hấp dẫn trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu đến độ một ngày kia các môn đệ Người xin được dẫn đưa vào trong đó. Giai thoại được kể lại  trong Phúc Âm thánh Luca, là thánh sử đã cung cấp tài liệu liên quan tới mầu nhiệm của Chúa Kitô cầu nguyện hơn các vị khác: Chúa cầu nguyện. Các môn đệ bị đánh động bởi sự kiện Chúa Giêsu, đặc biệt ban sáng và ban chiều, rút lui vào nơi thanh vắng và chìm sâu trong lời cầu nguyện. Chính vì vậy mà một ngày kia họ xin Ngài dậy họ cầu nguyện (Lc 11,1). Và khi đó Chúa Giêsu truyền lại cho họ điều đã trở thành lời cầu kitô tuyệt diệu là Kinh Lậy Cha. Thật ra so sánh với thánh Mátthêu thánh Luca kể lại lời cầu của Chúa Giêsu trong một hình thức hơi ngắn gọn, bắt đầu với lời khẩn nài đơn sơ: Lậy Cha” (c.2).
** Tất cả mầu nhiệm lời cầu kitô được tóm gọn ở đây, trong từ này: có can đảm gọi Thiên Chúa với tên gọi là Cha. Phụng vụ cũng khẳng định điều đó, khi dùng kiểu nói “chúng con dám nguyện rằng” để mời gọi chúng ta cùng nhau đọc lời cầu nguyện này của Chúa Giêsu. ĐTC quảng diễn thêm như sau:
Thật thế, gọi Thiên Chúa với tên gọi là Cha không phải là một sự kiện đương nhiên. Chúng ta sẽ có khuynh hướng dùng các tước hiệu cao cả hơn xem ra kính trọng sự siêu việt của Chúa hơn. Trái lại, kêu cầu Ngài như là “Cha” đặt để chúng ra trước một tương quan tin tưởng với Ngài, như một đứa bé hướng tới cha mình, vì biết rằng mình được cha yêu thương và săn sóc. Đây là cuộc cách mạnh lớn lao mà Kitô giáo in sâu vào trong tâm lý tôn giáo của con người. Mầu nhiệm của Thiên Chúa luôn luôn hấp dẫn chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình bé nhỏ, nhưng không khiến cho chúng ta sợ hãi, không đè bẹp chúng ta, không làm cho chúng ta lo lắng. Đó là một cuộc cách mạng khó chấp nhận trong tâm hồn chúng ta. Đến độ trong các trình thuật sự Phục Sinh người ta nói rằng các phụ nữ sau khi thấy mộ trống và thiên thần “đã chạy trốn vì họ kinh hoàng khiếp sợ” Mc 16,8). Nhưng Chúa Giêsu vén mở cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa là cha nhân lành và Ngài nói với chúng ta: “Đừng sợ!” ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ:
Chúng ta hãy nghĩ tới dụ ngôn người cha thương xót (x. Lc 15,11-32). Chúa Giêsu kể về một người cha chỉ biết là tình yêu đối với con cái ông. Một người cha không đánh phạt đứa con vì thái độ ngạo mạn của nó, và ông có khả năng tín thác cho nó phần gia tài của mình và để cho nó đi khỏi nhà. Thiên Chúa là Cha, nhưng không phải theo kiểu của con người trần gian, bởi vì không có người cha nào trên thế giới này hành xử như vậy như người cha trong dụ ngôn. Thiên Chúa là Cha theo kiểu của Ngài: tốt lành, không được bênh đỡ trước sự tự do của con người, có khả năng chia động từ “yêu thương”. Khi người con nổi loạn, sau khi phung phí mọi sự, rốt cuộc trở về nhà nơi nó sinh ra, người cha đó không áp dụng các tiêu chuẩn của công lý nhân loại, nhưng trước hết cảm thấy cần tha thứ, và với vòng tay ôm của mình ông làm cho người con hiểu rằng trong suốt thời gian dài vắng bóng ấy ông thiếu nó, ông thiếu nó một cách đau đớn trong tình yêu là cha của ông.
** Ôi mầu nhiệm khôn dò biết bao một vì Thiên Chúa dưỡng nuôi kiểu yêu thương đó đối với con cái Ngài!
Có lẽ vì thế mà khi gợi lại nòng cốt mầu nhiệm kitô, tông đồ Phaolô không dịch ra tiếng Hy lạp một từ mà Chúa Giêsu đã nói trong tiếng Aramây là từ “abba”.  Trong các thư của ngài hai lần thánh Phaolô đề cập tới đề tài này và hai lần nài để nguyên từ này không dịch trong cùng công thức trong đó từ “abba” đã tươi nở trên môi Chúa Giêsu, một từ còn thân thiết hơn từ “cha” và có ai đó dịch là “ba, bố”.
Anh chị em thân mến, chúng ta không bao giờ cô đơn. Chúng ta có thể xa vắng, thù nghịch, chúng ta cũng có thể xưng mình “không có Thiên Chúa”, nhưng Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô vén mở cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa không thể không có chúng ta: Ngài sẽ không bao giờ là một vì Thiên Chúa “không có con người”. Ngài không thể sống mà không có chúng ta, và đây là một mầu nhiệm lớn lao… Thiên Chúa không thể là Thiên Chúa mà không có con người: đó là một mầu nhiệm lớn lao. Sự chắc chắn này là suối nguồn niềm hy vọng của chúng ta, mà chúng ta tìm thấy được giữ gìn trong Kinh Lậy Cha. Khi chúng ta cần sự trợ giúp, Chúa Giêsu không nói với chúng ra hãy nhẫn nhục và đóng kín trong chính mình, nhưng hướng tới Chúa Cha và cầu xin Ngài với lòng tin tưởng. Tất cả các nhu cầu của chúng ta, từ những nhu cầu hiển nhiên và thường nhật như thực phẩm, sức khoẻ, việc làm, cho tới nhu cầu được tha thứ và nâng đỡ trong các cám dỗ, chúng không phải là tấm gương phản chiếu sự cô đơn của chúng ta: trái lại có một người Cha luôn luôn nhìn chúng ta với tình yêu thương và chắc chắn không bỏ rơi chúng ta.
Đó là niềm hy vọng mà chúng ta tìm thấy được duy trì trong tất cả mọi lời cầu của Kinh Lậy Cha, một lời cầu cách mạng tâm lý tôn giáo của con người. Bây giờ tôi đề nghi với anh chị em: mỗi người trong chúng ta có biết bao nhiêu vấn đề, biết bao nhiêu nhu cầu…Trong thinh lặng, chúng ta hãy suy nghĩ một chút các vấn đề và các nhu cầu đó. Chúng ta cũng hãy nghĩ tới Chúa Cha, Cha của chúng ta, là Đấng không bao giờ có thể sống mà không có chúng ta, và trong lúc này đang nhìn chúng ta. Và tất cả cùng nhau với lòng tin tưởng và hy vọng chúng ta cầu nguyện. Lậy Cha chúng con ở trên trời.. ĐTC đã cùng tín hữu đọc kinh Lậy Cha.
** ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương khác nhau. Trong các nhóm nói tiếng Pháp ngài chào các phái đoàn đến từ Pháp, Côte d’’ Ivoire và Benin; ngài xin Chúa Thánh Thần dẫn đưa mọi người vào trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu và biết sống các tương quan con thảo của tình yêu thương và sự tin tưởng với Thiên Chúa Cha, một tương quan loại bỏ mọi sợ hãi.
Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước Anh, Ecốt, Đức, Hoà Lan, Ghana, Ấn Độ, Indonesia, Singapore, Đại Hàn, Hồng Kông, Đài Loan, Philippines, Canada và Hoa Kỳ. ĐTC cũng chào các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha, và Bồ Đào Nha, trong đó có Brasil và mời gọi họ luôn tin tưởng hướng tới Chúa là Cha trong mọi lúc và mọi nhu cầu của cuộc sống. Sự phục sinh của Chúa Kitô đã mở ra con đường vượt qua cái chết. Vì vậy không có gì có thể ngăn cản chúng ta sống trong tình bạn với Thiên Chúa Cha, và làm chứng cho lòng nhân lành thương xót vô biên của Ngài.
Trong các đoàn hành hương Ba Lan ĐTC đặc biệt chào hiệp hội Nữ Vương hoà bình tỉnh Radom, lấy hứng từ 12 ngôi sao trên triều thiên của Đức Mẹ, đang thực hiện 12 trung tâm chầu Thánh Thể để liên lỉ cầu nguyện cho hoà bình tại những vùng đất nóng bỏng trên thế giới. Vì lời tín hữu Nam Hàn xin ĐTC cho biết ngài đã làm phép bàn thờ “Thờ lậy Chúa trong hiệp nhất và hòa bình” cho đền thánh Đức Bà Mân Côi Namyang. Trong tháng 6 này là tháng kính Thánh Tâm ĐTC xin mọi người cầu nguyện cho hoà bình.
Ngày thứ năm 8-6 lúc 13 giờ tại nhiều nước có sáng kiến “Một phút cho hoà bình”, kỷ niệm buổi cầu nguyện giữa ĐTC, cố tồng thống Peres của Israel và tổng thống Palestin Abbas. Thời đại ngày nay cần lời cầu nguyện cho hoà bình biết bao nhiêu giữa các tín hữu Kitô, do thái và hồi giáo.
Trong các nhóm nói tiếng Ý ĐTC chào các nữ tu Bác ái của các thánh nữ Capitanio và Vicenza Gerosa tham dự tổng tu nghị, các lực sĩ trẻ tham dự cuộc hành hương “đuốc hoà bình” Macerata-Loreto, do ĐC Nazzareno Marconi hướng dẫn, cũng như các tu sĩ anh em hèn mọn Phanxicô, tín hữu San Cipriano Picentino và Airola mừng kỷ niệm 100 năm lễ Đức Mẹ Sầu Bi, các tham dự viên đại hội quốc tế về Sản khoa, trẻ em nhà thương nhi đồng thánh Mátthêu tỉnh Pavia. Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ngài nhắc cho mọi người nhớ tháng sáu là tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. ĐTC ước mong người trẻ học trường Thánh Tâm Chúa để lớn lên trong đạo hạnh, người đau yếu biết kết hiệp khổ đau của họ với khổ đau của Chúa, các cặp vợ chồng mới cuới biết nhìn lên Thánh Tâm Chúa để học sống tình yêu thương vô điều kiện.
Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.
Linh Tiến Khải
Read more…

Bỏ Quên Tình Chúa

09:41 | Chủ Nhật, 4 tháng 6, 2017
Sương mù phủ kín đời con,
Tiền tài danh vọng véo von rủ hoài.
Hứa trao phú quý láng lai,
Để quên tình Chúa miệt mài xót xa.
Xin Chúa cho con nhận ra Chúa hiện diện trong mỗi bước chân con đi trong cuộc sống, nhất là trong những lúc gặp khó khăn, thử thách, xin cho con lại càng cảm nghiệm được “Chúa dìu bước con đi qua đêm đen và luôn cất lời cảm tạ”.

Đừng mở lời trách móc Chúa. Trách móc Chúa là kiêu ngạo.
Người đời đâu dễ vì ta,
Nhiều tiền lắm bạc, hoan ca ra vào.
Đến khi đau yếu thì thào,
Cô đơn chiếc bóng, quỷ gào không nguôi.
Gác tay lên trán, hỡi ơi!
Thì giờ tích tắc qua rồi còn đâu.
Gẫm suy tình Chúa thấm sầu,
Lương tâm cắn rứt, lo âu u trầm.
Đời con sao lắm lỡ lầm,
Say mê trần thế, đâu cần nhớ thương.
Một thời nát bấy như tương,
Ngã lòng trông cậy, hết vương tình Trời.
Thời gian qua đi, không bao giờ trở lại? Nuối tiếc chả ích gì. Phải lo giữ gìn những gì có thể mất trong hiện tại.
Thật là ích kỷ nếu tôi nghĩ về cái tôi của mình quá lớn. Ích gì cho tôi nếu tôi đóng cửa lòng đối với tiếng gọi của tình yêu Thiên Chúa, đối với đức ái tha nhân?
Lặng im, nghĩ đến phận đời,
Ngước nhìn lên Chúa, ngưng lời kêu ca.
Tiếng lòng phát nhẹ ngân ra:
Con lìa lắm dạo, nhưng Ta luôn hiền.
Vẫn thương, vẫn đợi triền miên,
Hãy mau quay gót tìm về Thánh Tâm.
Giê-su nhân ái tri ân,
Cận kề bên Chúa từ nhân, hết sầu!
Nhìn lên Thánh Giá của Thầy Chí Thánh để học được bài yêu thương, vì lúc nào Thiên Chúa cũng đợi chờ và gõ cửa tâm hồn tôi, lúc nào cũng ban cho tôi ân sủng của Ngài để tôi đủ sức chiến đấu với chính mình và vui tươi trên đường về Nhà Cha.
Làm sao đón nhận được ân sủng mà Cha ban cho, nếu tôi không để lòng lắng đọng trong một khoảng thời gian thinh lặng, để nghe được lời dạy bảo và đón nhận tình thương Chúa trao ban?
Giây phút hiện tại chỉ đến với tôi một lần và không bao giờ trở lại.
Trong giây phút hiện tại, Thiên Chúa trao ban cho tôi sứ mệnh hoàn thành một trọng trách mà Ngài không muốn người khác làm thay tôi. Vì thế, nếu tôi không hoàn thành thì vô phúc cho tôi.
Lặng im, nghĩ đến phận đời,
Ngước nhìn lên Chúa, ngưng lời kêu ca.
Tiếng lòng phát nhẹ ngân ra:
Con lìa lắm dạo, nhưng Ta luôn hiền.
Vẫn thương, vẫn đợi triền miên,
Hãy mau quay gót tìm về Thánh Tâm.
Giê-su nhân ái tri âm,
Cận kề bên Chúa từ nhân, hết sầu!
Vinh dự cao quý nhất của con nguời là đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa.
Xin cảm tạ Chúa đã cho con vào đời, lại được làm con Chúa qua Bí tích Rửa tội, được sống trong Hội Thánh mà Chúa Giêsu Kitô đã thiết lập với Bảy Bí Tích, để không ngừng dưỡng nuôi và minh chứng tình yêu Chúa muốn thông ban qua hàng Giáo phẩm. Xin Chúa là núi đá cho con trú ẩn, chiến lũy kiên cố để bảo vệ con, vì danh dự Ngài xin chỉ đường dẫn lối cho con.
Lưới kẻ thù giăng, xin gỡ con ra khỏi, vì nơi con trú ẩn chính là Ngài (Tv 30, 3-5).
Đường đời quả lắm sắc màu,
Giữa vùng sáng tối, thi nhau ngông cuồng.
Nắng mưa bão tố, gió sương,
Bao nhiêu trăn trở, vấn vương quá mà!
Trần gian đâu phải quê nhà,
Sống sao minh chứng mong Cha trên Trời.
Đêm khuya thanh vắng giữa khơi,
Thuyền con chao ngửa chơi vơi dòng đời.
Lưới kẻ thù giăng, xin gỡ con ra khỏi, vì nơi con trú ẩn chính là Ngài (Tv 30, 3-5).
Bước tiếp theo Thầy, con nhìn về núi thánh ôn lại những hành trang của người Kitô hữu trưởng thành, làm muối ướp, làm men nồng và làm ánh sáng ngay trong cuộc sống gia đình, và với mọi người chung quanh con trên bước đường con đang sống.
Tình thương Thiên Chúa cao vời,
Yêu con, Cha cũng đành rời Con Cha.
Xuống đời Cứu Thế dặm xa,
Hy sinh chấp nhận vượt qua khổ hình.
Nhìn lên ảnh Thầy Chí Thánh, ánh mắt Thầy nhìn tôi đầy yêu thương, trìu mến. Thầy yêu hết mọi người, không trừ ai. Thầy đâu có tội tình gì mà phải lãnh bản án bất công. Hãy suy gẫm mười lăm chặng đàng Thánh Giá Thầy đã đi qua.
Cúi xin Cha hãy thương tình,
Bấy lâu con đã bặt tin Cha hiền.
Hoang đàng phung phí triền miên,
Thuyền đời trôi nổi lênh đênh mái chèo.
Thoát bao nhiêu nỗi cheo leo,
Cũng nhờ có Chúa như neo dòng đời.
Thời gian còn lại, một lời,
Con xin chọn Chúa, không rời nữa đâu.
Tôi tự nghĩ rằng: “Là một người Kitô hữu, tôi phải hơn người ở chỗ nên giống Thầy Chí Thánh. Nhìn lại mình, không nhiều thì ít, tôi cũng là tội nhân trong quá khứ đau buồn do chính mình gây nên, nhưng lại được Thầy Chí Thánh cùng đồng hành và an ủi: “Hãy vác thập giá đời con mà theo Thầy”.
Lời Thầy lại vang vọng: “Anh chị em hãy mang lấy ách của Thầy, và hãy học cùng Thầy, vì Thầy có lòng hiền hậu và khiêm nhượng. Tâm hồn anh chị em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của Thầy êm ái và gánh của Thầy nhẹ nhàng” (Mt 11, 28-29).
Đã là ách và gánh thì làm sao nhẹ nhàng! Chúa đã cho tôi cảm nghiệm: ách và gánh vì yêu thì cho dầu nặng bao nhiêu cũng thành nhẹ. Thầy đã đi bước trước và chết vì yêu.
Lạy Thầy Chí thánh, con yêu mến Thầy. Lời Thầy dịu ngọt làm sao! Lời Thầy dạy con bài học yêu, để cho  đôi chân con nhẹ nhàng tiến bước, không bận tâm làm gì về những giận hờn, khổ đau, ghen ghét, hiểu lầm trong cuộc sống.
Xin Cha ban phúc nhiệm mầu,
Thánh Thần tuôn đổ giọt châu thấm tình.
Ngắm nhìn Đức Mẹ tươi xinh,
Cho con vui bước, trung trinh lòng thành.
Giã từ trần thế song hành,
Giê-su con Mẹ chúc lành em cưng.
Vui ca mà vẫn rưng rưng,
Có Cha, có Mẹ, đệ huynh sum vầy.
Xin ban cho con quả tim mới. Phần con, con quyết tâm giữ gìn trẻ trung cho đến lúc đôi môi nở nụ cười mãn nguyên phó thác trong giờ ra đi vĩnh viễn.
Mỗi người chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống. Hãy sống sao cho nên người con Chúa, người chứng nhân của tình yêu.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời để đau khổ làm con nên mềm mại. Xin cho đôi chân con miệt mài đi tới để tìm niềm vui bên Chúa nơi Nhà Chầu vắng. Đời con đâu có cô đơn vì Chúa chính là gia nghiệp của con.
Lay Chúa, xin cho con yêu Chúa một ngày một hơn.
Nam Giao
Read more…

Trong Đau Khổ Thiên Chúa Ở Đâu ?

06:55 | Thứ Bảy, 3 tháng 6, 2017
Có thể nói, chứng lý mạnh nhất mà những người chủ trương vô thần dựa vào đó để phủ nhận hiện hữu của Thiên Chúa, là đau khổ và sự dữ. Họ dựa vào hai phẩm tính của Thiên Chúa: Toàn năng và yêu thương, mà “lên án tử” cho Ngài.
Thật vậy, một Thiên Chúa toàn năng không thể để cho đau khổ và sự dữ tồn tại trên trần gian. Lại nữa, một Thiên Chúa yêu thương không thể dửng dưng với số phận nghiệt ngã của con người…Những luận chứng như thế càng làm con người xa rời Đạo giáo và không giúp con người lớn lên và được giải thoát. Chúng ta không đi sâu vào những cuộc tranh luận về mặt trí thức vì như thế không dẫn đến đức tin. Nhưng chính khi chấp nhận đảm nhiệm cuộc sống mình cách tích cực và tinh thần đức tin, chúng ta dễ dàng khám phá ra trong từng khoảnh khắc sướng khổ của phận người có sự hiện diện sống động và tràn đầy của Thiên Chúa.
Toàn năng
Có nhiều người cho rằng: Thiên Chúa toàn năng có thể làm được mọi sự. Nếu hiểu như thế, Thiên Chúa không toàn năng. Vì Ngài chỉ có thể hành động phù hợp theo bản tính Thiện của mình. Như thế, Ngài không thể là nguyên nhân của sự dữ. Và sự dữ đến từ một nguồn khác, mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta câu trả lời: kẻ chủ mưu chính là Satan.
Vấn đề đặt ra: Một Thiên Chúa toàn năng sao không ngăn chặn mưu đồ làm điều ác ? Có chứ ! Tùy trường hợp. Chúng ta có thể nhận ra sự can thiệp của Ngài trong cú ngã ngựa của thánh Phaolô. Chúng ta thử tưởng tượng khi được chứng thư của các nhà lãnh đạo Do thái, ông hầm hầm sát khí, lên đường tìm các Kitô hữu để bách hại, bắt tù…tắt một lời, ông gây đau khổ, bấn loạn cho các kitô hữu. Mưu ác không thành. Ông bị Chúa quật ngã xuống đất… và sau đó, ông nhận được một sứ vụ mới.
Một điều hết sức kỳ diệu là: qua cú ngã ngựa ấy, Chúa không cướp đi sự tự do của ông. Nhưng đây chỉ là “cú phanh” kịp thời giúp ông phản tỉnh lại về những mưu tính của mình không đẹp ý Thiên Chúa (mà sau này trong một lá thư, ông thú nhận là lúc đó bản thân hành động vì thiếu hiểu biết). Nếu trước kia, ông nhiệt tình bảo vệ Đạo Giáo đến nỗi bách hại những ai đi ngược với truyền thống cha ông thì bây giờ, ông lại nhiệt thành gấp bội để loán báo Tin Mừng về Đức Kitô chịu chết và phục sinh đem lại ơn cứu độ cho mọi người. Phân tích cụ thể và minh bạch như thế không ngoài mục đích giúp chúng ta nhận ra vai trò của Thiên Chúa trong lịch sử loài người, đó là Ngài tác động trực tiếp và gián tiếp đến đời sống con người, nhất là bảo vệ con người khỏi tai họa, khổ đau. Đây chỉ là một trong những minh chứng được Kinh Thánh tường thuật; còn biết bao điều lạ lùng kỳ diệu mà Thiên Chúa đã thi thố trong cuộc đời của các chứng nhân hy vọng. Sau những đau thương của cuộc đời, chúng ta phải xác tín chân lý này, Thiên Chúa làm chủ lịch sử; Ngài quan phòng cho mọi sự đạt đến cứu cánh tốt đẹp nhất. Chúng ta dễ bị cám dỗ mà nghĩ rằng: sao Thiên Chúa không can thiệp vào những đau thương của cuộc đời tôi ? Ngẫm nghĩ trong từng khoảnh khắc cuộc sống, chúng ta có thể nhận ra “ánh sáng” ở cuối con đường. Rằng: Thiên Chúa vẫn có đó khi tôi tưởng chừng mình đang cô đơn.
Tôi cũng nghĩ đến các thánh cũng như những người đạo đức được diễm phúc in 5 dấu thánh. Đọc nhật ký của họ viết, họ phải trải qua những cơn đau đớn khủng khiếp, đồng thời, những khổ tâm do những hiểu lầm của người đời…họ là một người “đau khổ”. Bạn thử hỏi 5 dấu thánh ấy đến từ đâu ? Khoa học không thể lý giải những trường hợp ngoại thường này. Do đức tin và lòng đạo đức, chúng ta bảo rằng Thiên Chúa thưởng công và ghi dấu ấn tình yêu trên những người thánh thiện. Như thế, đau khổ hay phần thưởng chỉ là do cái nhìn chủ quan của con người. Vấn đề là chúng ta cần khám phá ra sự hiện diện yêu thương của Ngài trong từng biến cố của cuộc đời. Và luôn xác tín như thánh Augustinô: Thiên Chúa rút từ sự dữ ra sự lành. Thiết tưởng, đó mới là dấu chứng của Thiên Chúa toàn năng.
Tình yêu
Có thể nói, ý chí tự do là một trong những nét đẹp được nhiều người dùng để giải thích về chân lý này: con người dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thật vậy, nhờ tự do, con người có thể chọn Thiên Chúa để sống thân mật với Ngài như một mối liên hệ quan trọng nhất trong đời; cũng nhờ tự do, con người có thể sống dấn thân với tất cả tình yêu hầu đi đến với Thiên Chúa là tình yêu. Thiết tưởng, đó là ý định tốt lành của Thiên Chúa; đó là cứu cánh của tự do con người. Nhưng thực tế cho thấy, phần lớn con người đã lạm dụng tự do để sống buông thả, hưởng thụ quá độ, chà đạp nhân phẩm, xúc phạm nhân quyền…tắt một lời, con người tự do làm khổ nhau. Với sự toàn năng của Thiên Chúa, chắc hẳn, Người biết và lường trước những hệ lụy con người gây ra cho nhau. Như thế, Ngài có chịu trách nhiệm phần nào trong những việc này chăng ?
Nếu xét về mặt luân lý, Ngài chẳng làm điều gì ác nên tội để phải chịu trách nhiệm về nó. Hơn nữa, Thiên Chúa không chịu chi phối bởi luật luân lý dưới bất cứ hình thức nào. Bởi đó, Ngài hoàn toàn không chịu trách nhiệm trong tội ác của con người tạo nên. Còn nếu xét trong tương quan giữa Đấng Tạo Hóa và các tạo vật, Thiên Chúa chịu “trách nhiệm” gián tiếp trong khi ban cho con người tự do và biết trước rằng con người có thể lạm dụng tự do và làm điều xấu. Trong khi Thiên Chúa ban tự do cho con người như việc Ngài cho con người thông chia tính toàn năng của Thiên Chúa thì họ lại làm dụng đi ngược với ý định của Ngài. Thế rồi, Thiên Chúa đã chịu trách nhiệm trong tình liên đới với tội lỗi con người. Điều này đã được thánh Phaolô diễn tả tuyệt vời qua câu nói: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5,21). Chính khi Đức Giêsu chết vì tội lỗi chúng ta mà Người đã chịu trách nhiệm và chữa lành những vết thương do con người lạm dụng tự do gây nên. Như thế, việc một số người cho rằng Thiên Chúa đã dửng dưng trước đau khổ của con người là một sai lầm. Thiên Chúa không can thiệp vào lịch sử nhân loại theo ý muốn của con người. Đức Giêsu chẳng xuống thập giá vì một lời thách thức của con người. Dần dà, chúng ta sẽ nhận ra cách hành động của Thiên Chúa: thay vì Ngài rút lại hay ngăn chặn hành động tự do của con người, thì Ngài lại hóa giải từ sự dữ ra sự lành. Thiết tưởng, đó là cách tốt nhất để Thiên Chúa mặc khải Ngài là Đấng toàn năng đầy yêu thương.
Người đồng hành
Chúng ta đã từng nghe câu chuyện về giấc mơ của một chàng thanh niên. Mỗi ngày chàng đi dạo bộ với Chúa Giêsu trên bãi biển rất êm ả và bình yên. Chàng thích thú vì những dấu chân song hành như hai người bạn. Đến một ngày sóng to gió lớn, chàng lại chỉ thấy có một dấu chân. Trong hoảng hốt và sợ hãi, chàng hỏi Chúa đi đâu lúc cuộc đời đầy biến động. Chúa trả lời: “Chính những lúc ấy Ta đang bồng bế con trên tay”. Kinh nghiệm của chàng thanh niên này là một bài học khích lệ chúng ta tin tưởng và phó thác vào tình thương Chúa. Quả thật, Người vẫn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường cuộc sống.
Trong những lúc chúng ta bị hiểu lầm, chối từ, cô lập…thiết tưởng, việc đồng hóa mình vào những nhân vật trong các sách Tin Mừng sẽ là một lợi khí giúp ta dễ dàng vượt qua những đêm tối. Một Madalena bị xã hội lên án, ruồng bỏ…lại được tiếp chuyện với Chúa. Một Giakêu bị xếp vào hàng người bất chính, lại được Chúa đồng bàn ăn uống…Những mảnh đời đau khổ luôn tìm được nguồn nâng đỡ nơi Chúa Giêsu. Đôi khi, chúng ta chỉ cần một câu lời Chúa như lời hứa về một tương lai bất định, làm ánh sáng hướng dẫn bước ta đi. Những lúc chúng ta bị hiểu lầm, đặt điều, bôi nhọ, thì lời hứa: sự thật sẽ giải phóng các con, sẽ là một cái neo bám chặt vào lòng Chúa yêu thương. Điều quan trọng là tránh nổi giận, la lối thóa mạ, vì theo lời thánh Gioan Vianney: “Đau khổ trong an bình, sẽ chẳng còn đau khổ nữa”. Có thể nói, sự bình an trong tâm hồn là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa giữa cơn biến động. Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến là thế !
Xét cho cùng, chỉ trong cơn khốn khó, người ta mới nhận ra đâu là “vàng thật”; chỉ những người xác tín sự hiện diện của Chúa trong đời và chọn Chúa làm ý nghĩa của cuộc sống, mới khả dĩ vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc đời.
Nạn nhân
Một người phụ nữ kia đang đau lòng vì vừa mất đứa con 8 tuổi duy nhất của bà. Cái chết bất ngờ của người con này đã làm tăng nỗi cô đơn trong bà. Trong nỗi tức giận, mê sảng, bà tìm đến Cha xứ, bà hỏi: “Tại sao tôi có một đứa con duy nhất mà Chúa cũng cướp đi ?” Thấy người đàn bà này quá bị kích động, vị linh mục liền nghĩ ra một cách giúp bà giải tỏa, ngài đề nghị: “Đây, tôi gởi bà một cuốn tập, bà hãy tưởng tượng ra Chúa đang có mặt ở đây trước mặt bà và hãy viết những gì bà cần nói”. Và rồi, như một cơ hội bà trút hết sự tức giận lên một vị Thiên Chúa tưởng tượng. Nỗi đau quá lớn khiến bà trở thành một kẻ khát máu; bà không chỉ phỉ nhổ, chưởi rủa Ngài mà còn muốn treo Ngài lên cao giữa trời và đất…Lát sau, bà đã thấm mệt và thiếp đi lúc nào không biết. Vị linh mục vào, bà liền tỉnh dậy và trao lại cuốn tập đã viết với những dòng chữ đầy “máu và lửa”. Đọc xong, vị linh mục nói: “Thế là bà đã giết Thiên Chúa một lần nữa. Phần Ngài, Ngài nói với bà điều gì, bà biết không ?” Bà đáp: “Thưa, không”. Vị linh mục nói: “Chúa bảo rằng xin Cha tha cho bà vì bà không biết việc bà làm”.
Tha cho kẻ muốn giết mình đó là cách thể hiện tình yêu của Thiên Chúa. Chết thay và cứu chuộc cho kẻ giết mình là cách thể hiện tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Chúng ta có thể hỏi Ngài ở đâu trong lúc tôi gặp đau khổ. Ngài là nạn nhân trong kẻ xấu số là bạn. Ngài trở nên bất lực với người bất lực nhưng không tuyệt vọng. Ngài đã chấp nhận để bạn treo Ngài lên thập giá vì tôn trọng tự do của bạn. Chúa muốn bạn dùng tự do để yêu mến Ngài nhưng bạn đã dùng tự do để giết Chúa. Ngài toàn năng nhưng không rút lại tự do của bạn. Ngài không hối hận khi ban tự do cho bạn. Ngài đợi chờ bạn chính nơi bạn đã giết Ngài. Núi Sọ phải trở thành điểm hẹn thường xuyên của bạn khi đang đối diện với những đau khổ hay bất công đời này. Không ai đau khổ hơn Ngài vì bị người yêu phản bội. Không ai chịu bất công như Ngài dù vốn là người vô tội. Bạn có sẵn sàng chấp nhận khổ giá cùng với Đức Kitô để được phục sinh với Người không ? Đó là thách đố và đồng thời là một hồng ân trong cuộc biến đổi. Chúng ta chỉ thực sự biến đổi và trưởng thành trong đau thương. Chúng ta chỉ trở nên vững mạnh sau những lần gục ngã thảm thương. Sau những lần như thế, bạn sẽ ngộ ra thân phận bất lực của con người khi đứng trước đau khổ. Đồng thời, sống phó thác vào Đấng rút từ sự dữ ra sự lành cho những ai yêu mến Ngài.
Tóm lại, chúng ta đã trình bày Thiên Chúa toàn năng và Tình Yêu như một minh giải cho vấn đề đau khổ mà những người vô thần đã dùng để khước từ và phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa. Bởi đó, việc suy tư và đào sâu trong lãnh vực này sẽ giúp chúng ta có một hướng nhìn đúng đắn và thích hợp theo nhãn quan Kitô giáo. Chúng ta cần tái khẳng định rằng đau khổ là một huyền nhiệm, nó gắn liền với cuộc hiện sinh của con người. Thế nên, chúng ta sẽ không có một câu trả lời thỏa đáng mà chỉ là những kinh nghiệm bản thân hết sức chủ quan. Xét cho cùng, chỉ có đau khổ của Đức Kitô mới đích thực là mô phạm của mọi người. Vì khi chiêm ngắm Người trên Thánh Giá, chúng ta nhận ra hình ảnh bản thân. Dần dà, chúng ta nhận ra Người là Đấng rất gần gũi, đang đồng hành và là nạn nhân cùng chịu đau khổ với ta; và nói như thi sĩ Paul Claudel: “Đức Kitô đến không phải để hủy bỏ cũng không phải để giải thích đau khổ, nhưng làm cho đau khổ đầy tràn hiện hữu của Người”.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã là ý nghĩa cuộc đời tôi khi Người hiện diện với tôi trong mọi khoảnh khắc cuộc đời, nhất là trong lúc đau khổ, tưởng chừng như bế tắt và buông xuôi. Người là hy vọng duy nhất cuộc đời tôi.
EYMARD An Mai Đỗ, O.Cist.
Read more…

Chúa Thánh Thần giúp tín hữu gieo vãi niềm hy vọng

19:34 | Thứ Năm, 1 tháng 6, 2017



Chúa Thánh Thần là cánh buồm đẩy chúng ta tiến tới. Ngài là Ðấng ban cho chúng ta khả năng có tràn đầy niềm hy vọng, giúp chúng ta không bao giờ chán nản ngã lòng, và trở thành những người gieo vãi niềm hy vọng và sự ủi an trong trái tim con người và trong toàn vũ trụ.
Ðức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 50,000 tín hữu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần 31 tháng 5 năm 2017. Trong số các đoàn hành hương cũng có phái đoàn do cha Nguyễn Tầm Thường Dòng Tên hướng dẫn. Bên cạnh đó cũng có một số anh chị em người Việt thành viên Phong trào Canh tân đặc sủng Thánh Linh về Roma tham dự đại hội kỷ niệm 50 năm thành lập.
Mở đầu bài huấn dụ Ðức Thánh Cha nói:
Trong lễ trọng Chúa Thánh Thần hiện xuống gần kề chúng ta không thể không nói tới tương quan giữa niềm hy vọng kitô và Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là gió đẩy chúng ta tiến tới, duy trì chúng ta bước đi, làm cho chúng ta cảm thấy mình là khách hành hương và người kiều cư, và không cho phép chúng ta chậm bước và trở thành một dân tộc "định cư".
Thư gửi tín hữu Do thái so sánh niềm hy vọng với một mỏ neo (x. Dt 6,18-19) và chúng ta có thể thêm vào hình ảnh này hình ảnh cánh buồm. Nếu mỏ neo là cái khiến cho con thuyền có an ninh và giữ nó neo lại giữa sóng biển, thì cánh buồm trái lại là cái làm cho thuyền lướt trên nước. Niềm hy vọng thật sự giống như một cánh buồm. Nó thu thập gió của Thần Khí và biến nó thành sức mạnh đẩy con thuyền, ra khơi hay cặp bến, tuỳ theo các trường hợp.
Tiếp tục bài huấn dụ Ðức Thánh Cha nói: Tông đồ Phaolô kết luận thư gửi tín hữu Roma với lời cầu chúc sau đây; xin anh chị em hãy nghe rõ, hãy lắng nghe lời cầu chúc đẹp biết bao này: "Xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng, ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình an nhờ đức tin, để nhờ quyền năng của Thánh Thần, anh em được tràn trề hy vọng ." (Rm 15,13). Chúng ta hãy suy tư một chút về lời nói rất hay đẹp này.
Kiểu nói "Thiên Chúa của niềm hy vọng" không chỉ muốn nói rằng Thiên Chúa là đối tượng niềm hy vọng của chúng ta, nghĩa là Ðấng chúng ta hy vọng một ngày kia đạt tới trong cuộc sống vĩnh cửu; nó cũng còn muốn nói rằng Thiên Chúa là Ðấng khiến cho chúng ta hy vọng ngay bây giờ đây, và còn hơn thế nữa làm cho chúng ta "tươi vui trong hy vọng" (Rm 12,12): tuơi vui hy vọng giờ đây, và không phải chỉ hy vọng được vui mừng. Ðó là niềm vui hy vọng và không hy vọng có niềm vui. Ngày nay. Có một câu nói bình dân rằng: "Còn sống là còn hy vong"; và điều trái lại cũng đúng: "Còn hy vọng là còn sống". Con người cần hy vọng để sống, và cần Chúa Thánh Thần để hy vọng.
Thánh Phaolô - như chúng ta đã nghe - gán cho Chúa Thánh Thần khả nằng làm cho chúng ta "được tràn đầy hy vọng". Tràn đầy hy vọng có nghĩa là không bao giờ chán nản ngã lòng; có nghĩa là hy vọng "chống lại mọi hy vọng" (Rm 4,18), nghĩa là hy vọng cả khi không còn có lý do để hy vọng, như đối với tổ phụ Abraham, khi Thiên Chúa xin tổ phụ sát tế con một là Igiaác cho Ngài, và còn hơn thế nữa như Ðức Trinh Nữ Maria đứng dưới chân thập giá của Chúa Giêsu.
Chúa Thánh Thần khiến cho niềm hy vọng vô địch ấy có thể được, bằng cách ban cho chúng ta chứng tá nội tâm rằng chúng ta là con cái của Thiên Chúa và là các người thừa tự của Ngài (x. Rm 8,16). Làm sao Ðấng đã ban Con một Ngài cho chúng ta lại không ban cho chúng ta mọi sự khác cùng với Con Ngài được? (x. Rm 8,23). "Niềm hy vọng - hỡi anh chị em - không gây thất vọng, Niềm hy vọng không gây thất vọng, bởi vì tình yêu của Thiên Chúa đã được đổ tràn đầy vào trong con tim chúng ta nhờ Thánh Thần mà Người đã ban cho chúng ta" (Rm 5,5). Vì thế nó không gây thất vọng, bởi vì Chúa Thánh Thần từ bên trong thúc đẩy chúng ta tiến tới, luôn luôn tiến tới. Và vì vậy niềm hy vọng này không gây thất vọng. Ðức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ:
Còn hơn thế nữa Chúa Thánh Thần không chỉ khiến cho chúng ta có khả năng hy vọng, mà cũng trở thành những người gieo vãi hy vọng, và là những người an ủi và bênh vực các anh em khác, như Ngài và nhờ Ngài. Những người gieo vãi niềm hy vọng. Một kitô hữu có thể gieo vãi các cay đắng, có thể gieo vãi sự nghi ngờ, và người đó không phải là kitô hữu. Và bạn, nếu bạn làm điều ấy, thì bạn không phải là một tín hữu kitô tốt. Hãy gieo vãi hy vọng: Hãy gieo vãi dầu hy vọng, hãy gieo vãi hương thơm hy vọng, chứ không phải giấm chua cay đắng và thất vọng.
Chân phước Hồng Y Newman, trong một diễn văn đã nói với các tín hữu như sau: "Ðược chính sự khổ đau của chúng ta dậy dỗ, còn hơn thế nữa được chính các tội lỗi của chúng ta dậy dỗ, chúng ta sẽ có tâm trí được tập luyện cho mọi công việc của tình yêu thương đối với những người cần nó. Chúng ta sẽ là những người an ủi và là hình ảnh của Ðấng Ủi An, nghĩa là Chúa Thánh Thần, tuỳ theo khả năng của chúng ta, và trong mọi nghĩa bao gồm từ này: trạng sư, trợ tá, người đem lại ủi an. Các lời nói và các lời khuyên của chúng ta, kiểu hành động, tiếng nói, cái nhìn của chúng ta sẽ dễ thương và thoa dịu" (Parochial and plain Sermons, Vol V, London 1870, tr.300 tt.). Và đặc biệt những người nghèo, người bị loại trừ, người không được yêu thương cần có ai đó là người an ủi và bênh vực họ. Như Chúa Thánh Thần là đấng an ủi và bảo vệ cho từng người trong chúng ta hiện diện ở quảng trường này, chúng ta cũng phải làm như thế đối với những người cần được giúp đỡ nhất, những người bị loại bỏ và đau khổ nhất. Là những nguời bênh vực và an ủi.
Chúa Thánh Thần dưỡng nuôi niềm hy vọng không chỉ trong trái tim con người, mà còn trong toàn thụ tạo nữa. Tông đồ Phaolô cũng nói - điều này xem ra hơi lạ, nhưng đúng thật. Thánh tông đồ nói rằng thụ tạo "nóng lòng hướng tới" sự giải thoát và "rên siết" như nỗi đau đớn sinh con (x. Rm 8,20-22). "Năng lực có khả năng di chuyển thế giới không chỉ là một sức mạnh vô danh và mù quáng, mà là hoạt động của Thần Khí của Thiên Chúa, là Ðấng "bay là là trên mặt nước" (St 1,2) lúc khởi đầu việc tạo dựng" (Biển Ðức XVI, Bài giảng, 31-5-2009). Cả điều này nữa cũng thúc đẩy chúng ta tôn trọng thụ tạo: không thể làm bẩn một tác phẩm mà không xúc phạm tới người nghệ sĩ đã tạo ra nó.
Anh chị em, ước chi lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống sắp tới - là lễ sinh nhật của Giáo Hội, lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống sắp tới tìm thấy chúng ta hoà hợp trong lời cầu nguyện, với Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu và là Mẹ chúng ta. Và xin ơn của Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được tràn đầy hy vọng. Tôi còn nói hơn nữa: ước chi nó làm cho chúng ta phung phí niềm hy vọng với tất cả những người cần được trợ giúp nhất, những người bị loại bỏ và cần đến chúng ta nhất.
Ðức Thánh Cha đã chào các đoàn hành hương đến từ Pháp, Bỉ và Camerun, đặc biệt là cộng đoàn Emmanuel và huynh đoàn Chúa Thánh Thần hiện xuống, cũng như các tín hữu đến từ Benin, với Ðức Cha Vieira và từ Gabon với Ðức Cha Ogbonna Managwu.
Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước Anh, Bỉ, Na Uy, Ấn Ðộ, Indonesia, Nhật Bản, Malaysia, Ðài Loan, Việt Nam, Hồng Kông, Singapore, Ðại Hàn, Tahiti, Uganda, Canada và Hoa Kỳ. Cách riêng các thành viên phong trào Canh tân đặc sủng Thánh Linh về Roma tham dự buổi canh thức và đại hội kỷ niệm 50 năm thành lập. Ngài xin Chúa Thánh Thần đổ tràn đầy các ơn trên họ.
Trong các nhóm nói tiếng Ðức, Ðức Thánh Cha đặc biệt chào đông đảo các người trẻ đến từ Ðức, Thụy Sĩ và Hoà Lan. Ngài cũng chào các tín hữu nói tiếng Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha, như các tín hữu Angola và Brasil. Ngài xin mọi người cùng nhau cầu nguyện để Chúa Thánh Thần đổ tràn đầy các ơn của Ngài trên từng người hầu trở thành các chứng nhân của Chúa Giêsu cho tới tận cùng bờ cõi trái đất.
Trong số các nhóm Ba Lan, Ðức Thánh Cha chào các bạn trẻ tham dự cuộc họp mặt gần hồ Lednica với khẩu hiệu "Hãy đi và yêu thương". Ngài xin Mẹ Maria giúp họ biết trợ giúp tha nhân một cách cụ thể như Mẹ Maria trợ giúp bà Elidabet. Vị bổn mạng thứ hai của cuộc họp mặt là Dakêu. Xin ngài kích thích họ có can đảm tìm kiếm Chúa Giêsu trong cuộc sống và triệt hạ mọi bức tường ngăn cách, hiểu biết nhau, cảm thông và xây dựng sự hiệp nhất với tất cả mọi người.
Ðức Thánh Cha cũng chào các đoàn hành hương Tchèque do Ðức Hồng Y Dominik Duka, Tổng Giám Mục Praha, hướng dẫn, nhân kỷ niệm 75 năm vụ tàn sát do Ðức Quốc Xã gây ra tại Lidice. Ngài xin Ðức Bà Lidice trợ giúp họ can đảm làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Kitô trong những lúc gặp khó khăn thử thách.
Trong các nhóm Italia ngài đặc biệt chào các thiện nguyện viên lực lượng cảnh sát quốc gia vùng Campania, các thành viên hãng General Motors, các thành viên tổ chức phi chính quyền "Một giọt nước cho thế giới" tỉnh Molfetta.
Chào người trẻ, Ðức Thánh Cha khích lệ họ dành chỗ nhất cho Thiên Chúa và tinh yêu của Ngài trong cuộc sống. Ðức Thánh Cha xin Chúa Thánh Thần trợ giúp và an ủi các người bệnh tật trong những lúc khổ đau, và ngài xin Chúa Thánh Thần củng cố sự hiệp nhất của các đôi tân hôn.
Buổi tiếp kiến dã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh Ðức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải
(Radio Vatican)
Read more…
Trang 1 / 2512345...25»