Nhận Biết Đấng Phục Sinh

06:22 | Thứ Bảy, 29 tháng 4, 2017
Có tin thì mới yêu, có yêu thì mới muốn gặp, và khi đã gặp rồi thì “hai năm rõ mười”, nhận biết tỏ tường, sự thật minh nhiên, không thể chối cãi – đúng hoặc sai, yêu hoặc ghét. Đó là một quy trình đơn giản mà cần thiết, có mối liên kết chặt chẽ với nhau.
Trong cuộc sống đời thường, có nhiều dạng khoảng cách – địa lý, tinh thần, tâm linh. Tuy nhiên, chúng ta đi được khoảng cách xa bao nhiêu cũng không quan trọng bằng những người chúng ta gặp dọc đường, qua đó chúng ta sẽ nhận biết được gì? Quả thật, sự nhận biết rất quan trọng. Sống ở đời không thể không gặp gỡ nhau, nhưng gặp nhau rồi có nhận biết nhau hay không lại là chuyện khác.
Gặp nhau chắc chắn nhìn thấy nhau, và thường liên quan cuộc đối thoại – có thể đối thoại bằng ngôn ngữ, bằng ánh mắt, bằng động thái, bằng cử chỉ, thậm chí người ta vẫn có thể đối thoại ngay trong sự im lặng, gọi là “ngôn ngữ không lời”.
Người ta gặp gỡ nhau để làm gì? Gặp nhau để nhận ra nhau, để yêu thương, để chia sẻ với nhau, để giúp đỡ nhau, để biến đổi nhau,… Rất đa dạng. Gặp người đời mà còn cần thiết như vậy huống chi được gặp gỡ Thiên Chúa, đặc biệt là nhận biết chính Đức Kitô là Đấng Phục Sinh.
Chắc chắn cuộc gặp gỡ đó rất diệu kỳ, cuộc gặp gỡ đó có sức mạnh khó cưỡng lại, và cuộc gặp gỡ đó đã được Lm Ns Yuse Tiến Lộc (DCCT) mô tả trong một ca khúc thế này: “Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình, gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh, gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình gặp mình, gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh tình đệ huynh” (Gặp Gỡ Đức Kitô).
Cuộc gặp gỡ đó có kết quả tốt: nhận biết Đức Kitô qua tha nhân. Quá trình gặp gỡ Đức Kitô còn là một dạng được sống lại – tâm linh hoặc thể lý. Trường hợp sống lại của La-da-rô (Ga 11:1-44), em trai của Mác-ta và Ma-ri-a, và con trai bà góa thành Na-in (Lc 7:11-17) chỉ là sống lại về thể lý bình thường, không đổi khác và sẽ lại chết, nhưng trường hợp sống lại của Đức Kitô là sống lại đặc biệt và không thể chết nữa. Thân xác nhục thể và thân xác phục sinh vẫn là một, nhưng chắc chắn khác thường, rất kỳ diệu, vì thế mà chính Chị Ma-ri-a Mác-đa-la và hai môn đệ trên đường Em-mau đều không nhận ra Thầy Giêsu của mình, mặc dù rất quen. Chị Ma-ri-a Mác-đa-la chỉ có thể nhận ra Ngài khi Ngài gọi đích danh mình bằng giọng nói thân thương và quen thuộc, còn hai môn đệ kia chỉ có thể nhận ra Ngài khi Ngài làm động tác quen thuộc: bẻ bánh.
Và thậm chí còn hơn như thế nữa. Thật vậy, khi các tông đồ thấy Chúa hiện ra đứng ở giữa và chúc bình an cho họ mà họ lại kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma và ngờ vực. Nỗi lo sợ đã khiến họ hoa mắt chăng? Cửa thì đóng kín, thế mà bỗng dưng có người “đi xuyên tường”. Thế thì ma thật!
Có lẽ lúc đó Chúa Giêsu mỉm cười vì thấy các đệ tử co rúm vào nhau, mắt chữ O mà miệng chữ A. Ngài thấy tội nghiệp các trò lắm, thế là Ngài cho họ rờ vào Ngài, họ thấy Ngài vẫn có xương thịt và Ngài còn ăn khúc cá nướng họ đưa cho, lúc đó họ mới thấy mình không hề mộng du và tin là Thầy mình đã sống lại thật (Lc 24:36-43). Thân xác phục sinh khác thật và lạ thật đấy, nhìn giống như xưa mà lại không như xưa. Thảo nào chẳng ai nhận ra Ngài là Đức Kitô Phục Sinh!
Trong cuộc sống, bất kỳ ai gặp gỡ Đức Kitô thì đều biến đổi từ trong ra ngoài, biến đổi hoàn toàn, biến đổi thực sự chứ không “có vẻ”. Thấy ai biến đổi thì biết chắc người đó gặp được Đức Kitô. Biến đổi ở đây phải hiểu theo nghĩa tích cực, khiêm nhường và can đảm làm chứng về Chúa, chứ không “tỏ vẻ biến đổi” để “lấy tiếng” hoặc để được người khác khen ngợi.
Cuộc đời các thánh đã cho chúng ta biết chắc về việc họ được gặp gỡ Đức Kitô một cách thần bí. Vâng, cuộc đời họ biến đổi mau chóng và lạ lùng đến nỗi bị người khác nghi ngờ, thậm chí có những vị thánh bị nghi ngờ là tâm thần. Thế nhưng sự thật vẫn là sự thật, chân lý mãi là chân lý. Không thật thì không bao giờ có thể giả vờ hoặc ra vẻ như thật được!
Tông đồ Phêrô, người được Thầy Giêsu tín cẩn trao trọng trách làm Giáo hoàng tiên khởi, và đã từng nói mạnh là dám liều chết với Thầy, nhưng rồi chính con người ấy đã chạy trốn vì khiếp nhược khi Thầy bị bắt, đã chối bỏ Thầy vì nhát đảm, thế nhưng sau khi ông đã gặp gỡ và nhận biết Đức Kitô Phục Sinh thì ông hoàn toàn khác hẳn, không còn nhát đảm như trước. Cụ thể là vào một ngày nọ, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một (không còn Giu-đa Ít-ca-ri-ốt), và lớn tiếng nói với họ: “Thưa anh em, miền Giu-đê và tất cả những người đang cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, xin biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi nói đây” (Cv 2:14).
Sự biến đổi rất rõ nét. Ông Phêrô dõng dạc và thao thao bất tuyệt: “Thưa đồng bào Ít-ra-en, xin nghe những lời sau đây. Đức Giêsu Na-da-rét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó. Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi. Quả vậy, vua Đa-vít đã nói về Người rằng: Tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu, để tôi chẳng nao lòng. Bởi thế tâm hồn con mừng rỡ, và miệng lưỡi hân hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm hy vọng. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan” (Cv 2:22-28).
Một Phêrô của ngày hôm nay hoàn toàn biến đổi tích cực chứ không còn là một Phêrô hèn nhát và tiêu cực của ngày hôm qua. Ông thực sự trở nên một nhân chứng sống động, một nhân chứng nhiệt thành. Quả thật, khi đã biết đúng cái gì là thật thì người ta không còn sợ bất cứ thứ gì khác, kể cả cái chết.
Tiếp theo, ông Phêrô nói với giọng điệu quả quyết: “Thưa anh em, xin được phép mạnh dạn nói với anh em về tổ phụ Đa-vít rằng: người đã chết và được mai táng, và mộ của người còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay. Nhưng vì là ngôn sứ và biết rằng Thiên Chúa đã thề với người là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người, nên người đã thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Kitô khi nói: Người đã không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát. Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy, đang nghe” (Cv 2:29-33). Thật tuyệt vời khi người ta được Thiên Chúa biến đổi!
Chắc chắn Thiên Chúa rất vui lòng khi chúng ta hoàn toàn tâm phục khẩu phục Ngài, nói theo ngôn ngữ thời nay là “triệt buộc”. Nghe chừng miễn cưỡng nhưng không phải vậy, vì đó là cách “triệt buộc” của tình yêu, của Lòng Chúa Thương Xót. Ngài làm vậy để chúng ta hoàn toàn tín thác nơi Ngài và chúng ta được lợi ích là hưởng nhờ Lòng Thương Xót khôn lường của Ngài – hoàn toàn có lợi cho chúng ta chứ chẳng thêm gì cho Ngài. Khi đã gặp gỡ và nhận biết Đấng Kitô Phục Sinh, đồng thời tín thác vào Ngài, chúng ta sẽ không thể không vui mừng thân thưa: “Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con, vì bên Ngài, con đang ẩn náu. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa con thờ, ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?” (Tv 15:1-2).
Tại sao như vậy? Bởi vì lúc đó chúng ta biết chắc chỉ có Thiên Chúa mới thực sự là cứu cánh và là cùng đích của cuộc đời chúng ta: “Lạy Chúa, Ngài là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5). Do đó, chúng ta có thể không ngần ngại mà thề hứa: “Con chúc tụng Chúa hằng thương chỉ dạy, ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn nhủ con. Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:7-11). Niềm tin tưởng như vậy thật là tuyệt vời, niềm tín thác như thế đẹp biết bao!
Một khi đã thực sự tin tưởng nhau, người ta có thể gặp gỡ nhau bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, phàm nhân thường có mức độ ưu tiên khác nhau, và thường thì ai “ngon” hơn sẽ được “ưu tiên” hơn – “ngon” hơn nhờ “dễ nhìn” hơn, giàu có hơn hoặc “vai vế” hơn người khác. Thế nhưng Thiên Chúa không hề như vậy, đừng lấy cớ là “quen biết” Ngài nhiều (đi lễ nhiều, đọc kinh nhiều, cầu nguyện nhiều, làm từ thiện nhiều, làm việc tông đồ nhiều,…) mà tưởng mình “ngon” hơn người khác. Ảo tưởng thì chết chắc!
Thật vậy, Thánh Phêrô đã thẳng thắn: “Thiên Chúa là Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử. Vậy nếu anh em gọi Người là Cha, anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách này” (1 Pr 1:17). Rất rõ ràng, rất rạch ròi, rất nghiêm túc, rất công bình.
Và rồi ông còn giải thích thêm: “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô. Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa” (1 Pr 1:18-21). Nghe có vẻ “dài dòng” một chút, nhưng lại không thấy thừa chút nào. Thế mới lạ!
Tin tức về Đức Giêsu chịu chết làm rúng động dân chúng, tin tức đó chưa đủ lắng xuống thì tin tức về sự phục sinh của Ngài lại tiếp tục khuấy động lòng người. Chuyện lạ này nối tiếp chuyện lạ khác. Nhưng cũng chính ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến làng Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Họ cũng thấy thất vọng vì không biết tương lai ra sao, thôi thì về quê cắm câu cho chắc ăn, chứ giờ thì chưa biết chuyện ngã ngũ thế nào. Tướng mất thì quân cũng tan hàng. Buồn thật!
Trình thuật Lc 24:13-35 cho chúng ta biết rằng đang lúc họ vừa đi đường vừa trò chuyện và bàn tán, chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ, nhưng họ không hề nhận ra Ngài. Ngài thử “giả nai” mà hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?”. Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu vì thấy ông khách lạ này là người vô tình nhất thế gian rồi, vì chuyện xảy ra rùm beng khắp nơi mà ông ta lại chẳng biết gì ráo trọi. Sao lại có người vô tâm vô tính thế nhỉ?
Nghe “người lạ” hỏi vậy, một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay”. Đức Giêsu vẫn tỏ vẻ “vô tư” nên hỏi họ: “Chuyện gì vậy?”. Họ kể lại vụ ông Giêsu Na-da-rét là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân, thế mà các thượng tế và thủ lãnh đã kết án tử hình cho Ngài, rồi đóng đinh Ngài vào thập giá. Họ bảo trước đây họ vẫn hy vọng rằng chính Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en, thế nhưng những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Họ còn bảo họ cũng thấy kinh ngạc khi mấy người đàn bà ra mộ hồi sáng sớm, nhưng không thấy xác Ngài đâu cả, mấy bà còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo Ngài vẫn sống. Họ kết luận: “Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Ngài thì họ không thấy”.
Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?”. Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan Ngài trong tất cả Sách Thánh. Thế mà hai ông vẫn chưa hết “ngu đột xuất” đấy!
Chúng ta cảm thấy “nhột” và phải giật mình khi thấy Chúa Giêsu trách các ông “chậm tin”. Thật vậy, cuộc sống đời và đạo cứ hằng ngày trôi qua, chúng ta cứ sống theo hoàn cảnh mình riết thành quen, đến nỗi mọi thứ trở thành như một phản xạ, và rồi hầu như cũng mất luôn cảm xúc. Cứ thế và cứ thế, ngay cả việc làm dấu Thánh Giá cũng như một hành động của con robot được lập trình sẵn, hoặc đọc kinh như được nhấn play, gắn thẻ nhớ hoặc gắn USB, rồi cứ thế mà “phát âm” vậy thôi. Và rồi chúng ta vẫn cho rằng mình đang sống đức tin, nhưng khi gặp chuyện gì không xuôi xắn “như ý” mình thì chúng ta lại… ngại ngần. Ôi chao, hóa ra chúng ta vẫn “chậm tin” lắm, chẳng oan ức chi cả!
Thánh sử Luca cho biết rằng khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa, nhưng họ nài ép Ngài ở lại với họ vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn. Chúa Giêsu đồng ý. Khi ăn tối, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra vì thấy hành động này quen lắm, mới vài ngày thôi mà. Thế là họ nhận ra Thầy Giêsu, nhưng rồi Ngài lại biến mất. Tiếc hùi hụi! Họ gãi đầu gãi tai và bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”.
Thế là ngay lúc ấy, họ liền đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn”. Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Ngài bẻ bánh. Thế là mọi vấn đề được giải tỏa, không thèm về quê nữa!
Người ta nói rằng Chữ phải có Nghĩa – gọi là chữ nghĩa. Trong Việt ngữ, chữ “gặp gỡ” cũng độc đáo quá chừng luôn: GẶP để GỠ chuyện gì hoặc việc gì đó. GẶP thì mới GỠ được, KHÔNG GẶP thì KHÔNG GỠ được. Tương tự, NHẬN thì phải BIẾT, nếu KHÔNG BIẾT thì chắc hẳn “có vấn đề”. Những người được gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, dù là nam hay nữ, họ đều biến đổi hoàn toàn, thay đổi cả con người từ trong ra ngoài, bởi vì họ nhận biết Ngài. Họ được “gặp” Đức Kitô Phục Sinh và được Ngài “gỡ” mọi khúc mắc của con người cũ để trở nên con người mới hoàn toàn. Họ nhận biết Ngài nên họ cũng muốn nên giống Ngài hoàn toàn!
Lạy Thiên Chúa, xin cho con nhận thấy Chúa trong bất kỳ ai mà con gặp hằng ngày, nhất là đối với những người hèn mọn, và xin cho mọi người gặp con cũng nhận thấy Ngài sống động nơi con. Xin giúp con biết CẦM LẤY tấm-bánh-cuộc-đời-mình, rồi TẠ ƠN Chúa, sau đó BẺ RA và TRAO CHO mọi người, đồng thời can đảm làm nhân chứng về Đức Kitô Phục Sinh. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Read more…

Người Công giáo tốt là người biết tham gia chính trị

15:59 | Thứ Bảy, 22 tháng 4, 2017
Chính trị, hiểu đơn giản nhất là việc trị nước hay lo việc chung cho toàn xã hội. Làm chính trị là thuật ngữ để chỉ tất cả những hoạt động có liên quan đến việc trị nước giúp đời, xưa gọi là kinh bang tế thế. Theo nghĩa hẹp, làm chính trị là tham gia vào các thể chế phục vụ đất nước trong hệ thống chính quyền.
Ở những xã hội mà nhà cầm quyền không muốn người dân quan tâm đến việc trị nước của họ, do bản chất độc tài toàn trị hay do yếu kém về nội lực, thì chính trị được hiểu như là việc thay đổi hệ thống cai trị. Và do đó, những hành động đóng góp xây dựng công ích đều bị gán cho từ “chính trị”, coi như hành động đen tối và đáng lên án.
Trong bối cảnh đó, các khái niệm bị đánh tráo, và người dân chỉ muốn an thân làm ăn (dù làm không an và thân không có ăn). Nghe những từ “chính trị”, “làm chính trị”, thì người dân sợ hãi. Họ quên mất rằng mỗi người công dân có bổn phận xây dựng quê hương, góp phần đem lại công lý hòa bình thật sự cho xã hội.
Hài hước nhất và cũng bi đát nhất là việc những người dám lên tiếng thực hành điều Giáo huấn Xã hội Công giáo dạy là “lên tiếng tố cáo bất công” liền bị gán cho từ “phản động”. Từ này nghĩa gốc là chống lại sự tiến bộ. Nhưng trong xã hội độc tài toàn trị, nó được gán cho những người yêu quê hương đất nước, muốn thúc đẩy xã hội tiến bộ.
Có những người tự nhận mình là trí thức, nhưng khi thấy ai có tâm huyết lo việc xã hội thì cũng gọi người ta là phản động. Trên các mạng xã hội, người ta đọc thấy những comment chê trách các linh mục rằng “tu hành thì lo việc nhà thờ, đừng dây vào chính trị”, khi các linh mục này lên tiếng cho công lý hòa bình. Sự ngu dốt và hèn hạ ấy làm cho đất nước thiệt thòi rất nhiều, đồng thời làm bàn đạp cho sự tàn ác nẩy mầm và vươn cao.
Một trong những khí cụ mà xã hội này dùng để kết án con người là cắt xén. Vầng trăng có thể xẻ làm đôi, nhưng một câu nói hay một đoạn văn, nhất là một định nghĩa thì không thể cắt xén được. Mọi cắt xén để phục vụ cho những ý đồ sai trái là tội ác, hay ít ra là trái ngược với liêm sỉ trí thức. Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt đã “bị cắt xén” một cách thô bạo và bây giờ toàn thể lương tri nhân loại đã nhìn thấy sự thật.
Đức Thánh Cha Benedictô XVI bị cắt rời câu nói “một người Công Giáo tốt cũng là một công dân tốt” không theo kiểu người ta cắt xén Đức Tổng Giuse, nhưng bị cắt theo kiểu định nghĩa sai lạc. Gần đây nhất, trong vụ việc tại Mỹ Luông, Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp và các vị chủ chăn của giáo phận Vinh cũng bị cắt xén cách này cách khác.
Vậy thế nào là một người Công giáo tốt theo đúng ý nghĩa mà Chúa Giêsu là Hiền Thê của Người là Hội Thánh giảng dạy? Và bổn phận người Công giáo đối với “chính sự” ra sao?
Nhân đây xin chú ý một nguyên tắc: người ngoài một tổ chức không có tư cách để quy định bất cứ điều gì về thành viên của tổ chức đó, dù họ có thể nhận xét hay phê bình. Chẳng hạn một người đi đường không thể vào một trường học để quy định: giáo viên tốt của trường phải là một giáo viên biết nhảy đầm (!). Cũng tương tự như thế, không có một con người hay tổ chức nào của thế gian u tối có quyền quy định tư cách “công dân Nước Trời”. Anh không thể là một người vừa chống đối Thiên Chúa và Giáo Hội, vừa lên mặt định nghĩa “người Công giáo tốt”.
Vậy chúng ta phải hiểu “Người Công giáo tốt là một người công dân tốt” như thế nào?
Người Công giáo tốt là người công dân tốt
Người Công Giáo tốt trước hết là người yêu mến Chúa và luôn tuân giữ lề luật của Chúa, nhất là luật yêu thương. Lý tưởng của người Công giáo là nên thánh, nên trọn hảo như Chúa Giêsu truyền dạy (cf. Mt. 5,48). Và khi chu toàn luật mến Chúa yêu người, người Công giáo tái hiện cuộc sống và Lời giảng dạy của Chúa Giêsu để làm chứng cho Người giữa thế gian. Chính việc làm chứng tá theo lệnh truyền của Thầy mình, người Công giáo thể hiện mối tương quan của mình đối với xã hội trần thế. Nói khác đi, một người Công giáo tốt là người thực hiện trọn vẹn bổn phận của mình xét như thành phần của xã hội.
Ngày 27/6/2009, khi tiếp kiến các Giám Mục Việt Nam, Đức Thánh Cha Benedicto XVI trong diễn từ của mình đã khích lệ người Công Giáo Việt Nam hãy thể hiện qua cuộc sống hàng ngày tình bác ái, sự chân thật và tình yêu mãnh liệt của họ cho thiện ích chung của xã hội để mọi người nhận ra chân lý rằng Người Công Giáo tốt là người công dân tốt.
Ở đây cần phải nói rằng cái khẩu hiệu “tốt Đạo đẹp đời” được giăng mắc ở một số nơi trên đất nước này, nhất là cái trong thời thông tin bị chặn nhiều năm trước là khẩu hiệu rỗng tuếch và mị dân, được phổ biến do cái tờ báo rau xanh có cái tên rất kêu “Công giáo và Dân tộc” cùng với ông tổ của nó là “nhóm đàn két” đặt ra.
Cái loại đẹp đời theo kiểu hùa theo và hưởng thụ ấy không khác là bao so với kiểu bà Eva một đàng muốn sống tốt như một sinh linh được Thiên Chúa tạo thành, đàng khác lại muốn “đẹp cuộc đời” con rắn. Bao nhiêu bi luỵ và khốn khổ cũng từ việc đẹp mặt thế gian ấy mà ra. Phải hiểu rằng “đẹp đời” trong cái khẩu hiệu đó không phải là làm đẹp cho cuộc sống mà là đẹp lòng đời, đẹp lòng thế gian.
Trong cái não trạng ấy thì câu nói của Đức Thánh Cha Benedicto XVI được đón nhận và giải thích một cách rất trần tục, thiếu sót và thậm chí sai lạc nữa. Người ta cố tình giải thích rằng người công dân tốt là người sẵn sàng chấp nhận mọi mệnh lệnh và luật lệ trần thế, bất kể mệnh lệnh luật lệ ấy có trái ngược luật Chúa hay không.
Một người mẹ sắp sinh đứa con thứ ba sẵn sàng giết chết đứa con trong bụng mình là một người “công dân tốt” của nước xã hội chủ nghĩa vì thực hành luật về kế hoạch hoá gia đình! Một thanh niên cúi mặt khoanh tay khi đồng loại của mình bị áp bức là người “công dân tốt” vì biết “giữ gìn an ninh trật tự” theo định hướng này định hướng kia! Một linh mục hay tu sĩ không lên tiếng cho công lý là người “công dân tốt” vì biết an phận, lo cho phần rỗi chính mình là đủ mà không cần biết rằng Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo dạy phải chăm lo cho cả phần xác của đàn chiên!
Thế nhưng, trước mặt Thiên Chúa và trong lòng Hội Thánh, những con người sống như thế lại không phải là người Công giáo tốt, trước hết vì họ không sống cho tình yêu, hoặc ghê gớm hơn nữa, họ là kẻ giết người hay đồng loã với những kẻ đàn áp con người. Mà có tôn giáo nào coi kẻ sát sinh là tín đồ tốt đâu. Trong những xã hội coi trọng văn minh sự sống thì những con người ấy vẫn không thể là công dân tốt. Dù là thầy tư tế hay người tự nhận là ngoan đạo thì vẫn bị lên án nếu họ đi ngang qua một người bị lâm nạn mà lại rẽ đường khác, không sẵn sàng cứu giúp nạn nhân như người Samaritanô nhân hậu.
Người Công giáo tốt là người biết tham gia vào chính trị
Ngay từ thời Chúa Giêsu, các môn đệ vẫn được Người khuyến khích xây dựng trần thế theo những cách thức phù hợp. Các ông cùng với Người chăm sóc cho người đau yếu, bệnh tật và nghèo túng. Các ông cũng quan tâm đến các vấn đề xã hội như việc đóng thuế chẳng hạn.
Sách Tông đồ Công vụ thuật lại rằng sau khi Chúa Giêsu về Trời, các Tông đồ bị lãnh đạo thời bấy giờ cấm rao giảng Tin Mừng và bị họ hành xích, bách hại. Thánh Tông đồ Phêrô đã cương quyết trả lời: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người”.
Khi Đức Thánh Cha nói “một người Công giáo tốt là một người công dân tốt” là ngài muốn nói đến ý nghĩa khách quan và phổ quát của từ ngữ người “công dân tốt”, ấy là người biết góp phần xây dựng xã hội trên nguyên tắc công bằng, yêu thương và tôn trọng nhân phẩm. Điều này lại ngược với tiêu chí “công dân tốt” theo chiều hướng xã hội chủ nghĩa.
Người ta cố ý cắt xén và hiểu sai lời Đức Thánh Cha Benedicto XVI theo chiều hướng xã hội chủ nghĩa, và do vậy một số người, kể cả người Công giáo, tưởng rằng là người Công giáo tốt là người thụ động, cam chịu bất công và tuân theo luật đời bất chấp luân thường đạo lý.
Mà khi sống đúng tinh thần Kytô giáo, theo đúng giáo lý, lề luật, Kinh Thánh và Giáo huấn xã hội Công giáo, thì người môn đệ Chúa Giêsu góp phần làm thăng tiến xã hội trần thế. Khi đóng góp cho xã hội trần thế như vậy, thì người Công giáo làm chính trị. Làm chính trị theo nghĩa rộng là quan tâm đến các vấn đề xã hội, tìm cách loại bỏ những gian tà và ác độc để hướng xã hội đi lên theo con đường yêu thương, con đường tự do, con đường tôn trọng và bảo vệ công lý và sự thật.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã lấy cảm hứng từ thư của Thánh Phaolô gửi Timôthê để nói về trách nhiệm của nhà cầm quyền lãnh đạo và lời mời gọi tín hữu cầu nguyện cho họ. Ngài nói như sau:
“Một người Công Giáo tốt là người biết tham gia vào chính trị”, tham gia và đóng góp nhiều điều tốt nhất có thể như: “ý tưởng, kiến nghị, nhưng trên hết là lời cầu nguyện” cho những viên chức chính quyền, để họ biết yêu thương người dân, khiêm nhường, lắng nghe những ý kiến khác nhau của người dân để chọn ra phương cách tốt nhất.
Đài phát thanh Vatican dẫn lời Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: Những nhà cầm quyền “phải yêu thương người dân của họ” bởi vì “một lãnh đạo mà không yêu thương dân thì chẳng thể nào cầm quyền được. Họ có thể cầm trong tay kỷ luật, họ có thể chi phối an ninh trật tự, nhưng họ không thể quản trị.”
Ví dụ như vua David, “ông rất yêu thương dân của mình”, mặc dù ông lỗi phạm rất nhiều nhưng ông vẫn cầu xin Chúa đừng trừng phạt người dân mà hãy trừng phạt ông. Vì thế, hai nhân đức của một nhà lãnh đạo là biết yêu thương người dân và có sự khiêm nhường.”
Trong bài giảng lễ ngày 16 tháng 9, 2013 tại nhà nguyện Santa Marta, Đức Giáo hoàng Phanxicô bác bỏ ý kiến cho rằng “một người Công giáo tốt không can thiệp vào các vấn về chính trị”. Ngài nói Người Công Giáo không nên thờ ơ với chính trị, nhưng cần đưa ra các đề nghị, cũng như cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo biết phục vụ lợi ích chung trong khiêm nhường và lòng mến.
Ngay cả hàng giáo sĩ trong Giáo Hội dù không được làm chính trị theo nghĩa hẹp là tham gia vào công việc chính quyền, nhưng các ngài vẫn phải lên tiếng cho người nghèo, cho những người bị bỏ rơi ngoài lề xã hội và cho tất cả mọi con người đau khổ. Mới đây tại Ukraina, Đức Tổng Giám mục Sviatoslav Shevchuk, nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Giáo Hội Công Giáo đã trả lời với nhà cầm quyền trong vụ việc các linh mục dâng lễ nơi có biến loạn như sau:
“Mặc dù Giáo Hội không làm chính trị, nhưng Giáo Hội không thể khoanh tay đứng nhìn khi các tín hữu yêu cầu được chăm sóc tinh thần. Giáo Hội của chúng tôi luôn luôn đứng về phía sự thật bất chấp tất cả các mối đe dọa và sẽ làm như vậy vì đó là sứ mệnh đã được Chúa Cứu Thế trao phó. Chúng tôi nghĩ rằng thời áp bức đã trôi qua, nhưng lá thư này khiến chúng tôi đâm ra nghi ngờ. Chúng tôi không xấu hổ về sự hiện diện của chúng tôi tại quảng trường Maidan và sẽ tiếp tục ở lại đó”.
GIÁO HUẤN HỘI THÁNH VỀ CHÍNH TRỊ
Người Công giáo là người mang hai “quốc tịch”, trước hết họ là công dân của Nước Trời. Được sinh ra và định cư trong một vùng đất nhất định của trần thế này, họ cũng là công dân của một đất nước trên thế giới. Nhưng cuộc sống của người Công giáo được điều khiển và chi phối bởi lề luật của Vương quốc Thiên Chúa. Và họ hiểu rằng lề luật ấy là tuyệt đối và bất biến.
Trong cuộc lữ hành giữa trần gian, người Công giáo với tư cách là công dân một đất nước, cũng tuân hành theo luật định của đất nước đó. Nhưng có một nguyên tắc mà không một người Công giáo tốt nào dám vi phạm: ấy là khi luật lệ trần gian đi ngược lại với lề luật của Thiên Chúa và Hội Thánh, thì người Công giáo trung thành với lề luật mà Thiên Chúa thiết định.
Hãy lấy một ví dụ đơn giản. Luật Chúa dạy là không được giết người. Các nước xã hội chủ nghĩa quy định gia đình tốt chỉ có từ một đến hai con, ai có thai đứa con thứ ba thì phải giết từ trong bụng mẹ, hay là phá thai, dùng từ hoa mỹ thì gọi là thực hiện sinh đẻ có kế hoạch. Và như vậy một người Công giáo tốt không thể là công dân tốt trong trường hợp linh tinh này, như chúng ta phân tích ở đoạn trên.
Cũng tương tự như thế, một số nhà nước độc tài không muốn công dân của mình tham gia vào các hoạt động chính trị theo nghĩa dám nói lên sự thật và tình thương. Những nhà nước đó chỉ muốn người dân làm chính trị theo nghĩa cộng tác vào những đoàn hội do họ lập ra, nói tiếng nói mà họ viết sẵn lời, tham gia những trò mà họ điều khiển.
Nhưng Hội Thánh là Mẹ hiền của chúng ta luôn có cái nhìn xa rộng và nhân ái. Hội Thánh muốn con cái mình làm chứng cho Tin Mừng bằng việc thực thi huấn lệnh của Đức Kytô là Thầy và là Chúa.
Trong thời cận đại, Đức Giáo Hoàng Leo XIII, một nhà thông thái, một chính trị gia lỗi lạc và là một chủ chăn thánh thiện, trong triều đại của mình đã hết lòng vì một xã hội trần thế hoà bình và công bằng. Ngài dạy rằng mọi cơ chế triều đại của thế gian cần phải được thay đổi để nên tốt hơn.
Ngài viết: “Chỉ có Giáo hội Kitô đã và sẽ đang bảo tồn chắc chắn hình thái cai trị của mình. Vì được thiết lập trên nền tảng là Đấng đã có, đang có và vẫn có đời đời, Giáo hội ngay từ đầu đã nhận được những gì cần thiết để theo đuổi sứ mạng thần linh ngay giữa dòng lưu chuyển của vạn vật nhân trần. Còn đối với các xã hội thuần túy nhân loại, thì thời gian là yếu tố biến đổi vĩ đại cho mọi sự trần gian, như một sự kiện đã ghi khắc cả trăm lần trong lịch sử, tạo nên những thay đổi sâu xa về cơ chế chính trị…” (Thông điệp “Giữa Muôn Điều Lo Ngại”, 1892).
Nhưng nổi bật hơn cả, thông điệp “Rerum Novarum’ (Tân Sự) năm 1891 của ngài đã thúc giục con cái của Hội Thánh lên tiếng về mọi vấn đề trong xã hội. Thông điệp lừng danh này đã đặt nền móng cho Giáo huấn Xã hội Công giáo mà sau này Đức Hồng Y Tôi Tớ Chúa Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã có công tóm lược thành hệ thống.
Sau này Thánh Công Đồng Vatican II và các vị Giáo hoàng sau đó cũng lên tiếng về các vấn đề chính trị xã hội một cách rõ ràng và dứt khoát.
Chẳng hạn Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes của Thánh Công Đồng giới thiệu khuôn mặt của một Giáo Hội “thấy mình thật sự liên đới sâu xa với loài người và lịch sử nhân loại”.
Xin trích lại số 96 của bản Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội Công Giáo: “Gaudium et Spes trình bày một cách hệ thống các chủ đề về văn hoá, về đời sống kinh tế và xã hội, hôn nhân và gia đình, về cộng đồng chính trị, về hoà bình và cộng đồng các dân tộc, dựa trên quan điểm nhân học Kitô giáo và sứ mạng Giáo Hội. Mọi sự đều được xem xét bắt đầu từ con người và hướng tới con người, “thụ tạo duy nhất mà Thiên Chúa muốn vì chính nó”.
Xã hội, cơ cấu và sự phát triển xã hội phải được hướng tới chỗ giúp “con người tiến bộ”. Lần đầu tiên, Huấn Quyền Giáo Hội, ở cấp cao nhất, nói nhiều về các khía cạnh thế trần khác nhau của đời sống Kitô hữu: “Phải công nhận rằng sự quan tâm của Hiến chế đối với những sự thay đổi về xã hội, tâm lý, chính trị, kinh tế, luân lý và tôn giáo càng ngày càng thúc đẩy… mối  quan tâm mục vụ của Giáo Hội đối với các vấn đề của con người và việc đối thoại với thế giới”. (HTXHCG, 96)
Ngày hôm nay Giáo Hội vẫn lên tiếng trước các vấn nạn của con người: việc đàn áp, hạn chế tự do, phá thai, sông vô luân, tệ nạn xã hội, tham nhũng, các vấn đề hôn nhân v.v…
Giáo Hội không làm chính trị và Giáo Hội cũng cấm hàng giáo sĩ làm chính trị nghĩa hẹp là tranh giành quyền lực, tham gia các chính đảng hay tham gia công quyền. Nhưng nếu xét chính trị theo nghĩa thăng tiến phẩm giá con người và trả lại cho con người quyền tự do mà Thiên Chúa phú ban như bản chất của con người, thì Giáo Hội đang thực hiện một cách hoàn hảo.
Ở đây cũng cần mở ngoặc để giải thích thêm rằng những linh mục tham gia vào các tổ chức chính trị như ủy ban đoàn kết mà người dân hay gọi là đàn két, là làm sai luật Giáo Hội. Cũng có linh mục nói: “Tôi vào cho có chứ tôi làm gì đâu ngoài chuyện đi họp”. Ông linh mục ấy nói thế còn thiếu một điều quan trọng: nói không làm gì là sai, vì có làm gương xấu!
Việc tham gia vào các thể chế trần thế trong lãnh vực của mình là bổn phận của người tín hữu giáo dân.
Cần phải lưu ý ngay là Học Thuyết Xã Hội Công Giáo nhắc nhở: “Đức Giêsu – vị Mêsia được hứa trước – đã phản đối và đã vượt thắng sự cám dỗ của chủ nghĩa cứu thế bằng chính trị, mà điển hình là bắt các dân tộc chịu khuất phục mình (x. Mt 4,8-11; Lc 4,5-8). Người là Con Người xuất hiện “để phục vụ và để hy sinh tính mạng mình”
Điều này có thể làm cho một số người lầm tưởng rằng phải yêu thương kẻ thù, nghĩa là chấp nhận mọi thua thiệt để cứu rỗi họ. Nhưng vấn đề là yêu thương và đồng lõa là hai khái niệm khác biệt. Không bắt người khác khuất phục mình, không có nghĩa là mình phải chịu khuất phục để làm theo những điều sai lạc.
Tham gia chính trị trước hết là “Xem con người là nền tảng và mục tiêu của cộng đồng chính trị”. Điều này có nghĩa là trước hết phải nỗ lực làm cho phẩm giá con người được nhìn nhận và tôn trọng, bằng cách bênh vực và phát huy các quyền căn bản và không thể tước đoạt của con người. (HTXHCG 388).
Từ việc nhìn nhận nhân phầm con người và tôn trọng con người, việc tham gia chính trị sẽ thúc đẩy phát triển xã hội và làm cho xã hội thành cộng đoàn yêu thương như Thiên Chúa mong muốn.
Việc tham gia chính trị còn là “Không được cộng tác, dù chỉ là hình thức, vào những việc ngược với luật Chúa, dù đã được luật pháp dân sự cho phép, đó là một nghĩa vụ quan trọng của lương tâm”.
Không những người Công giáo phải tố cáo và lên án điều trái với lương tâm, với luật Chúa, mà còn phải phản kháng khi có thể. Có người cho rằng phải phản kháng ôn hòa trong mọi trường hợp. Thưa không. Giáo Hội dạy:
“Phản kháng bằng vũ khí trước sự đàn áp của chính quyền là điều không chính đáng, trừ khi thoả mãn được các điều kiện sau đây: 1/ có sự xâm phạm các quyền căn bản của con người cách chắc chắn, nghiêm trọng và kéo dài; 2/ đã sử dụng hết mọi phương thế khác để sửa đổi mà không kết quả; 3/ phản kháng như thế sẽ không gây ra những bất ổn tệ hại hơn; 4/ có hy vọng thành công với những lý do vững chắc; 5/ theo lý trí, không thể dự kiến một giải pháp nào hay hơn”(Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo 2243).
Ngoài ra, “sử dụng vũ khí được coi như giải pháp sau cùng để chấm dứt “một chế độ độc tài công khai và kéo dài, gây thiệt hại lớn cho các quyền căn bản của con người và làm tổn thất nghiêm trọng cho lợi ích chung của đất nước”(Thông điệp Populorum Progressio, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI).
Tạm kết luận
Chúng ta vừa đi lướt qua những nét chính trong Giáo Huấn của Hội Thánh về một lãnh vực rất quan trọng và cũng thật tế nhị. Như chúng ta vừa điểm lại, rõ ràng những cách nói “yêu thương” bâng quơ, Giáo Hội phải đứng bên lề chính trị, người Công Giáo không được dùng vũ lực trong bất cứ trường hợp nào… tất cả đều trái ngược Giáo Lý Công Giáo và trái với quan điểm của Giáo Hội.
Thật ra tất cả những kiểu nói đó thường là do tâm lý cầu an, muốn “bảo vệ vị thế của mình hơn là muốn thế mình để bảo vệ nhân vị”.
Không những Giáo Hội khuyến khích con cái mình tham gia vào chính trị để làm cho cuộc sống thêm đẹp hơn, mà Giáo Hội còn xem chính trị là việc thực hành đức ái.
Chính trị là một hình thức “tận tụy vì thiện ích chung” và như thế, là “một sự biểu hiện của bác ái” Đó là những lời tuyên bố của Đức Hồng Y Angelo Bagnasco, Tổng Gám Mục giáo phận Gênôva.
Trong Tông Huấn “Niềm Vui Của Tin Mừng” của Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Nếu quả thực “việc điều hoà trật tự công bằng của xã hội và nhà nước là một trách nhiệm chính trị”, thi Hội Thánh “không thể đứng bên lề cuộc đấu tranh cho công lý”. Mọi Kitô hữu, bao gồm cả các mục tử của họ, được kêu gọi bày tỏ quan tâm đối với việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Đây là điều cơ bản, vì tư tưởng xã hội của Hội Thánh chủ yếu là tích cực: Hội Thánh cống hiến các đề nghị, Hội Thánh hoạt động cho sự thay đổi và theo nghĩa này Hội Thánh vạch ra niềm hi vọng phát sinh từ trái tim yêu thương của Đức Giêsu Kitô. Đồng thời, Hội Thánh nối kết “sự dấn thân của chính mình với sự dấn thân trong lãnh vực xã hội của các Hội Thánh và các Cộng Đồng Hội Thánh khác, dù trên bình diện suy tư về học thuyết hay bình diện thực hành”. (số 182)
Trong số 205, Đức Thánh Cha viết: “Chính trị, dù thường bị chê bai, vẫn là một ơn gọi cao cả và một trong những hình thức cao quí nhất của bác ái, khi nó tìm kiếm lợi ích chung”.
Vâng, khi dân Chúa, nhất là mục tử, dấn thân cho công lý, cho người nghèo, thì vẫn “thường bị chê bai”, nhưng con cái Chúa phải dấn thân, vì đó là “ơn gọi cao cả” và “một trong những hình thức cao quý nhất của bác ái”, Đức Thánh Cha của chúng ta đã khẳng định điều ấy.
Gioan Lê Quang Vinh, VRNs
Read more…

Khi Người Không Đáp Trả

15:52 | Thứ Bảy, 22 tháng 4, 2017
Ai trong các con có bạn hữu nửa đêm đến nhà mình nói: Bạn ơi, cho tôi mượn mấy tấm bánh, vì bằng hữu ở xa tới mà tôi hết đồ ăn rồi. Người kia ở trong trả lời: Ðừng quấy rầy người ta, cửa đóng rồi, trẻ nhỏ ngủ hết, ai dậy mà lấy cho ông được. Nhưng nếu họ cứ gõ hoài. Ta bảo thật, người ấy không dậy mà cho vì tình bạn bè thì ít ra vì họ quấy rầy nên cũng ráng dậy mà lấy cho họ. Nên Ta bảo cho các con rõ: Vì hễ ai xin, sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ sẽ mở cho (Lc. 11: 5-10).
Chúa bảo tôi đến gõ cửa, ở đấy có chờ đợi. Ðó là lời xác định của Chúa. Như vậy, chắc chắn tôi sẽ bắt gặp nếu tôi kiếm tìm, tôi sẽ tìm thấy nếu tôi van xin.
Nhưng trong đời, tôi đã kinh nghiệm một nỗi bận tâm khó hiểu. Tôi gọi mà Chúa không đáp trả. Tôi xin mà Chúa không cho. Có những vực sâu của tâm hồn, có những đêm dài bất an, tôi hướng về Chúa nhưng tôi không gặp. Tôi không ước mơ những ước mơ lớn. Tôi chẳng xin sang giàu. Tôi chỉ xin cho tôi nhẹ bớt khổ đau tâm hồn. Tôi chỉ xin cho đỡ kéo dài bệnh tật của thân xác. Tôi chỉ xin Chúa soi cho tôi một ánh đèn khi tôi phải quyết định những vấn đề quan trọng. Tôi chỉ xin Chúa giữ tôi lại trước đêm đen mịt mùng cám dỗ. Nhưng tiếng tôi từ vực sâu lại vọng về với tôi trong nỗi vắng. Những lúc tôi cần Chúa nhất thì Ngài lại bỏ tôi đi xa. Vì sao Người im tiếng?
Ngài im tiếng. Hay có phải Ngài đang nói mà tôi không nghe? Ngài chối từ. Hay có phải cánh cửa đã mở mà tôi không vào vì có vũ tiệc của mùa xuân trần thế ở chung quanh? Ngài im lặng. Hay có phải Ngài bảo tôi: Hãy vào sa mạc, hãy ra bờ đá lặng thinh, hãy khép lại bớt cửa lòng rồi con sẽ nghe thấy tiếng Cha. Nhưng tôi chán những bờ đá vắng vẻ, và tôi đã yêu những vũ tiệc của mùa xuân trần thế ở chung quanh. Làm sao tim tôi nghe được tiếng con họa mi đang hót khi mà bày ve sầu đam mê đang kêu inh ỏi trong hồn?
Ngài thờ ơ. Hay có phải Ngài không đáp trả vì tôi bất xứng với ân sủng của Ngài. Chẳng ai có thể trách vì sao không có mặt trời nếu họ cứ sống dưới hầm tối, vực sâu. Chẳng ai có thể trách vì sao không có bình an nở giữa khu vườn tham lam. Người cha tốt là người cha đóng cửa nhà mình để đứa con khỏi ngày ngày về lấy gia tài đi hoang đàng, phung phí.
Vì sao Chúa không cho tôi điều tôi xin? Ðã bao lần Chúa bắt tôi đi. Gian nan. Mỏi. Tôi muốn ghé tạm xuống đường ngồi nghỉ. Nhưng Chúa biết để tôi ngồi nghỉ, dần dà tôi sẽ nghe theo tiếng nói của đất thấp, tôi sẽ lười biếng đối với tiếng gọi của trời cao. Tôi trách vì sao Người không cho tôi lập nghiệp trên những ước mơ của tôi, xin làm quê hương trên những ý nghĩ riêng tư của tôi. Ngài chẳng đáp trả, vì Ngài biết đường dễ dãi sẽ dẫn đến hư đi. Trong những đêm đen như mù mịt, tôi gõ nhưng cánh cửa chẳng mở. Phải chăng chỉ có Ngài, Ngài mới biết những gì là tốt nhất cho phần rỗi của tôi. Như vậy, không đáp trả có là dấu chỉ của tình thương?
Khi không đáp trả, đấy cũng là một cách trả lời. Trả lời bằng lặng im nhiều khi lại là câu trả lời thâm sâu và hàm chứa nhiều ý nghĩa.
Tôi không đến với ai mà tôi biết chắc rằng tôi không thể tin cậy. Khi đến xin Chúa trợ giúp là tôi đặt niềm tin nơi Ngài. Nếu đã đặt niềm tin thì sao lại có thể phân vân. Khi Ngài im lặng như không đáp trả, tôi lo âu, thì đấy là dấu hiệu niềm tin đó không vững vàng.
Niềm tin là lời cầu nguyện để xin được biến đổi. Như thỏi đất sét tin mình nằm trong tay người thợ lành nghề. Người thợ gốm biết loại đất sét nào có sức chịu đựng để đúc gạch lót đường, loại nào có thể tạc tượng. Niềm tin vững vàng là phó thác trong tay người thợ gốm vì tin rằng mình được yêu thương và săn sóc. Tin vững vàng hệ tại phó thác rằng Chúa là người thợ gốm khôn ngoan và không lầm lẫn trong công trình sáng tạo. Chứ tin vững vàng không có nghĩa là tin mình sẽ biến đổi được ý định của Chúa để đạt được điều mình xin. Có những lời xin chẳng bao giờ được đáp trả nhưng lại là một ân sủng thật lớn lao.
Ngày còn bé tôi không biết cầu nguyện thế nào. Những ngày bom nổ nhiều là những ngày mẹ tôi càng lo. Mỗi tối, mẹ tôi bảo tôi ngồi lần hạt cầu nguyện cho cha ngoài trận tuyến. Trong trí óc non dại, tôi cầu nguyện cho cha tôi được bình yên. Một lằn đạn hiểm nghèo. Một trái mìn kín đáo. Ðời sống bếp bênh như treo bằng sợi chỉ. Chỉ một giấy báo tin thôi, tôi sẽ là đứa mồ côi. Mẹ tôi sẽ là góa phụ. Tôi đã thấy nhiều lá cờ trải lên mộ đất. Tôi đã thấy nhiều chuyến xe nhà binh chở đơn độc một quan tài, người thiếu phụ đội nón trắng ngồi lặng lẽ không còn nước mắt để khóc.
Rồi chuyện một đêm đã đến. Chiến tranh đổ xuống trên mảnh đất quê tôi. Tôi còn bé, nhưng tôi hiểu những nghẹn ngào của người có thân nhân vừa mới vĩnh biệt. Mưa ướt lẹp xẹp, tôi nghển cổ nhìn qua cửa sổ đông chật người. Một chiều mưa ảm đạm, lạnh lẽo làm sao. Mái lá thấp đổ những dòng mưa thảm não. Tôi vẫn còn nhớ cái buổi chiều xám nặng nề ấy cho tới hôm nay. Ðôi chân của cậu X. chết nằm sóng sượt trên cái phản gỗ. Bùn dính lem luốc. Mợ X. khóc thảm thiết bên xác chồng mới chết trận. Ai đã bắn chết cậu? Có phải kẻ mà cậu chưa kịp bắn?
Tò mò, tôi theo những đứa trẻ khác ra ven rừng xem xác chết. Những hố bom cày tung đất còn mới nguyên. Vải băng trắng còn lẫn với xác người chưa kịp thu. Giữa những xác người ấy, tôi thấy một người nằm chết cong queo, cụt chân vì bom nổ, máu bầm khô bết vào áo đầm đìa. Mặt cháy đen. Nhìn kỹ trên khuôn mặt ấy, tôi không quên được là chuỗi tràng hạt vẫn quàng vòng quanh cổ. Kẻ chết là một bộ đội miền Bắc. Ðiều làm tôi ngỡ ngàng là bộ đội cộng sản cũng tin vào Chúa như tôi sao?
Từ ngày đó, mỗi lần giúp lễ, nhìn lên thánh giá mà hồn tôi bâng khuâng. Tôi thấy Chúa buồn. Quỳ đây, tôi cầu nguyện xin Chúa chở che cha tôi ngoài chiến trận. Nhưng người cán binh bộ độ ấy, có thể cũng có một đứa con trai bằng tuổi tôi ở ngoài miền Bắc. Nó cũng là cậu bé giúp lễ. Cứ mỗi sáng, mẹ nó cũng đánh thức nó dậy thật sớm để giúp lễ, cầu nguyện cho cha đang ở mãi trong miền Nam heo hút. Năm tháng bặt tin, chắc chiều chiều, tối tối, mẹ nó cũng rối bời lòng trí, thẫn thờ nhìn về phương Nam, dục nó đọc kinh. Chúa nghe lời tôi để cha tôi giết họ? Chúa nghe lời cậu bé kia để cha cậu giết cha tôi? Cả hai cậu bé đều cầu nguyện, Chúa biết nghe lời ai?
Tôi không tin là Chúa có câu trả lời. Tôi chỉ cảm thấy rằng Chúa khó xử ghê gớm lắm. Chúa trên thập giá như càng thêm đau đớn. Mỗi lời cầu của tôi là một vết thương cho Ngài. Mỗi nỗi lo âu của cậu bé ngoài miền Bắc kia làm Ngài thêm khổ tâm.
Tôi hình dung Chúa như một người cha. Ðứa con thứ nhất chạy đến: Cha ơi, đưa con dao cho con để con chém nó. Ðứa con kia chạy lại, sợ hãi: Cha ơi, đừng đưa! Cha có biết rằng con cũng là con của cha sao? Và người cha chỉ còn biết đớn đau mà thôi, vì cả hai con đều là con của mình.
Từ đó, mỗi buổi sáng giúp lễ, tôi thấy Chúa trên thập giá như ngậm ngùi. Tay giang rộng cứ thêm mãi khổ thương. Từ ngày đó, trong cái trí óc non nhỏ của tôi, tôi hiểu mơ màng rằng bất cứ hành động nào gây thương tích cho nhau cũng là làm khổ cho Cha trên trời.
Lạy Chúa,
Mỗi khi con cầu nguyện thì cho con biết xin được biến đổi, chứ đừng biến đổi Chúa. Làm sao con có thể biến đổi sự khôn ngoan của Chúa thành sự vụng về của con. Khi con nài Chúa làm theo ý con là con muốn đem sự hoàn hảo của Chúa thành những bất toàn giống như của con.
Con ngỡ tiếng sói sủa là vui tai. Con ngỡ lời mời của Satan là tha thiết. Con ngỡ trái táo hồng có hương thơm, nào ngờ đâu con có biết sâu độc làm tổ ở bên trong. Những lời con xin nhiều khi rất đẹp, nhưng chỉ là đẹp theo cái nhìn của con mà thôi.
Lạy Chúa,
Xin cho con hiểu rằng có những lời xin mà Chúa chẳng thể đáp trả được. Và chính lúc Chúa im lặng lại là lúc Chúa đang nói với con bằng ngôn ngữ nhiệm mầu nhất.
Trích từ: “CON BIẾT CON CẦN CHÚA” của Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J
Read more…

Tuần Thánh, gặp gỡ Chúa Giêsu

06:18 | Thứ Năm, 6 tháng 4, 2017
Tuần thánh là một thời gian đặc biệt. Trong thời gian đặc biệt này, Chúa Giêsu hẹn gặp tôi. Người gặp tôi như người cha hiền mong đợi đứa con phung phá. Người gặp tôi như người chủ chiên lành đi tìm con chiên lạc. Người gặp tôi như nguồn nước hằng sống muốn tràn vào tâm hồn tôi đang khô cạn.
Chúa Giêsu đợi chờ tôi dưới những hình thức dễ thương đó. Chờ đợi như thế là những mời gọi. Mời gọi âm thầm. Mời gọi dịu dàng. Mời gọi thân thương.
Read more…

Đường con theo Chúa

07:22 | Thứ Bảy, 1 tháng 4, 2017
Hai người bạn vô tình gặp nhau tại trường thực tập. Họ tíu ta tíu tít hỏi nhau:
– Ô, Loan à! Bạn khỏe không? Nay bạn ở đâu rồi?
– Tớ vẫn khỏe, cám ơn bạn. Hiện tại tớ đang đi tìm hiểu ơn gọi. Còn bạn?
– À, tớ ở bên Long Thạnh Mỹ. Thế bạn đi tu lâu chưa, chừng nào thì khấn?
– Tớ mới đi, còn lâu mới khấn.
– Gần chỗ tớ ở, có một chị mà tớ quen lúc tớ còn học cấp 3, giờ chị ấy thành bà sơ rồi.
– Ừm. Tùy dòng thôi Hằng ạ.
– Mừng quá à ! Mình gặp lại nhau. Chúc Loan thành công trong ơn gọi nhé
Cả hai cùng ngồi lại trong giờ nghỉ trưa ôn lại những chuyện xưa cùng nhau vui đùa.
Vâng đôi khi tư tưởng của chúng ta đi tu là được khấn sớm là niềm hạnh phúc, được thuộc về Chúa được mọi người yêu mến và không vướng mắc điều gì là mới thực sự hợp ơn gọi.Vì quan điểm như vậy, ngày nay nhiều bạn trẻ rất để ý và quan tâm đến thời gian để khấn.
Đi tu là đi theo Chúa suốt cuộc đời. Chúa không đắn đo, tính toán thời gian. Ngài mong ước tấm lòng, trái tim chúng ta. Tất cả những ai đã và đang bước theo Chúa thì là người được Chúa yêu thương, đã thuộc về Ngài, dù chúng ta đang ở giai đoạn và hoàn cảnh nào. Thân phận chúng ta yếu đuối, dễ vấp ngã và khó đón nhận những điều trái ý chúng ta. Chúng ta luôn mong muốn con đường mình đi phải thẳng tiến, thành công và không được dừng lại. Còn khi gặp những hố sâu, ghồ ghề đau khổ thì chúng ta chán nản than trách và muốn buông xuôi tất cả. Nhiều lúc chúng ta biết rõ thân xác và tâm hồn chúng ta đang bị đau, bị bệnh cần phải chữa trị, nhưng chúng ta vẫn muốn xông pha đi lên. Chúng ta sợ mất ước mơ, sợ bị đau, bị nhục,…
Chữ “sợ” đã bao trùm cả tâm hồn cõi lòng chúng ta. Nó dẫn chúng ta đi trên con đường đầy nghi vấn và lo lắng.
Nếu chúng ta để mình rơi vào sự ích kỷ của bản thân thì khi gặp một hòn đá giữa đường, chúng ta sẽ hoang mang, loay hoay. Chúng ta sẽ không biết làm thế nào. Nếu muốn dẹp nó, chúng ta phải dừng lại vứt nó đi, còn không thì để mặc nó mà cứ bước đi. Sự giằng co ấy cứ diễn ra trong lòng chúng ta ngày này qua ngày khác. Lúc ấy, phúc cho chúng ta biết tìm đến Chúa. Chính Ngài sẽ giải phóng chúng ta có một lối đi tốt đẹp.
Vâng lối đi của Chúa bao giờ khởi đầu cũng là đau khổ, và rất khó bước đi. Nhưng khi bước đi Ngài sẽ vỗ về an ủi. Và đích điểm chúng ta đạt được là được ở bên Chúa.
Chúng ta đừng sợ khi phải dừng chân nghỉ ở bậc thang nào. Bởi vì Chúa biết điều gì tốt cho chúng ta. Ngài sợ mất chúng ta nên Ngài muốn cho chúng ta có cơ hội nhìn thấy Tình Yêu và sứ mạng của chúng ta rõ hơn.
Nói như vậy, không phải những ai thẳng đường bước đi sẽ mất tình yêu Chúa. Thật sự Ngài thấy họ đủ sức bước tiếp và Ngài cũng tiếp tục dìu dắt họ đi. Nhưng nếu họ không ngưng bám vào Chúa thì họ cũng sẽ xa rời Chúa cách nào đó.
Hành trình theo Chúa là một chặng đường dài và luôn luôn không ngừng tập luyện cùng với sự cố gắng gắn kết trong tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ là huấn luyện viên đào tạo chúng ta. Ngài biết rõ khả năng từng người, dù chúng ta có chậm trễ hay dừng bước ở giai đoạn nào thì đó là chuyện của thế gian. Còn đối với Thiên Chúa, chúng ta vẫn được Ngài tuyển chọn, yêu thương, miễn sao chúng ta vẫn khao khát tìm kiếm Ngài. Chúa rất vui với những ai biết khiêm nhường đơn sơ, vui vẻ đón nhận sự bất toàn của bản thân. Vì lúc ấy Người đến được gần họ.
Thánh Phêrô một con người bị Chúa chỉ trích la mắng nhiều lần. Ông còn chối thầy ba lần. Vậy mà ông vẫn là người được Chúa tín nhiệm nhất. Vì ông vẫn hằng khao khát đến với Chúa và ông vẫn luôn làm lại từ đầu. Vâng, điều quan trọng là chúng ta phải khao khát tìm Chúa không ngừng, lắng nghe và đáp trả tiếng Chúa mỗi ngày. “Tình yêu lấp đầy khoảng trống”. Chúng ta hãy năng gặp Chúa khi tâm hồn bị tổn thương để được Chúa xoa dịu cơn đau và đừng sợ đi theo Ngài.
Thời gian chẳng là gì khi con khao khát tình yêu Chúa.
Đau khổ là chỉ khi trái tim con biết yêu.         
Tình yêu vững mạnh làm cho con thuộc về Chúa.
Anna Cỏ may
Read more…
Trang 1 / 2512345...25»