Trong Đau Khổ Thiên Chúa Ở Đâu ?

17:09 | Thứ Năm, 23 tháng 11, 2017
Có thể nói, chứng lý mạnh nhất mà những người chủ trương vô thần dựa vào đó để phủ nhận hiện hữu của Thiên Chúa, là đau khổ và sự dữ. Họ dựa vào hai phẩm tính của Thiên Chúa: Toàn năng và yêu thương, mà “lên án tử” cho Ngài.
Thật vậy, một Thiên Chúa toàn năng không thể để cho đau khổ và sự dữ tồn tại trên trần gian. Lại nữa, một Thiên Chúa yêu thương không thể dửng dưng với số phận nghiệt ngã của con người…Những luận chứng như thế càng làm con người xa rời Đạo giáo và không giúp con người lớn lên và được giải thoát. Chúng ta không đi sâu vào những cuộc tranh luận về mặt trí thức vì như thế không dẫn đến đức tin. Nhưng chính khi chấp nhận đảm nhiệm cuộc sống mình cách tích cực và tinh thần đức tin, chúng ta dễ dàng khám phá ra trong từng khoảnh khắc sướng khổ của phận người có sự hiện diện sống động và tràn đầy của Thiên Chúa.
Toàn năng
Có nhiều người cho rằng: Thiên Chúa toàn năng có thể làm được mọi sự. Nếu hiểu như thế, Thiên Chúa không toàn năng. Vì Ngài chỉ có thể hành động phù hợp theo bản tính Thiện của mình. Như thế, Ngài không thể là nguyên nhân của sự dữ. Và sự dữ đến từ một nguồn khác, mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta câu trả lời: kẻ chủ mưu chính là Satan.
Vấn đề đặt ra: Một Thiên Chúa toàn năng sao không ngăn chặn mưu đồ làm điều ác ? Có chứ ! Tùy trường hợp. Chúng ta có thể nhận ra sự can thiệp của Ngài trong cú ngã ngựa của thánh Phaolô. Chúng ta thử tưởng tượng khi được chứng thư của các nhà lãnh đạo Do thái, ông hầm hầm sát khí, lên đường tìm các Kitô hữu để bách hại, bắt tù…tắt một lời, ông gây đau khổ, bấn loạn cho các kitô hữu. Mưu ác không thành. Ông bị Chúa quật ngã xuống đất… và sau đó, ông nhận được một sứ vụ mới.
Một điều hết sức kỳ diệu là: qua cú ngã ngựa ấy, Chúa không cướp đi sự tự do của ông. Nhưng đây chỉ là “cú phanh” kịp thời giúp ông phản tỉnh lại về những mưu tính của mình không đẹp ý Thiên Chúa (mà sau này trong một lá thư, ông thú nhận là lúc đó bản thân hành động vì thiếu hiểu biết). Nếu trước kia, ông nhiệt tình bảo vệ Đạo Giáo đến nỗi bách hại những ai đi ngược với truyền thống cha ông thì bây giờ, ông lại nhiệt thành gấp bội để loán báo Tin Mừng về Đức Kitô chịu chết và phục sinh đem lại ơn cứu độ cho mọi người. Phân tích cụ thể và minh bạch như thế không ngoài mục đích giúp chúng ta nhận ra vai trò của Thiên Chúa trong lịch sử loài người, đó là Ngài tác động trực tiếp và gián tiếp đến đời sống con người, nhất là bảo vệ con người khỏi tai họa, khổ đau. Đây chỉ là một trong những minh chứng được Kinh Thánh tường thuật; còn biết bao điều lạ lùng kỳ diệu mà Thiên Chúa đã thi thố trong cuộc đời của các chứng nhân hy vọng. Sau những đau thương của cuộc đời, chúng ta phải xác tín chân lý này, Thiên Chúa làm chủ lịch sử; Ngài quan phòng cho mọi sự đạt đến cứu cánh tốt đẹp nhất. Chúng ta dễ bị cám dỗ mà nghĩ rằng: sao Thiên Chúa không can thiệp vào những đau thương của cuộc đời tôi ? Ngẫm nghĩ trong từng khoảnh khắc cuộc sống, chúng ta có thể nhận ra “ánh sáng” ở cuối con đường. Rằng: Thiên Chúa vẫn có đó khi tôi tưởng chừng mình đang cô đơn.
Tôi cũng nghĩ đến các thánh cũng như những người đạo đức được diễm phúc in 5 dấu thánh. Đọc nhật ký của họ viết, họ phải trải qua những cơn đau đớn khủng khiếp, đồng thời, những khổ tâm do những hiểu lầm của người đời…họ là một người “đau khổ”. Bạn thử hỏi 5 dấu thánh ấy đến từ đâu ? Khoa học không thể lý giải những trường hợp ngoại thường này. Do đức tin và lòng đạo đức, chúng ta bảo rằng Thiên Chúa thưởng công và ghi dấu ấn tình yêu trên những người thánh thiện. Như thế, đau khổ hay phần thưởng chỉ là do cái nhìn chủ quan của con người. Vấn đề là chúng ta cần khám phá ra sự hiện diện yêu thương của Ngài trong từng biến cố của cuộc đời. Và luôn xác tín như thánh Augustinô: Thiên Chúa rút từ sự dữ ra sự lành. Thiết tưởng, đó mới là dấu chứng của Thiên Chúa toàn năng.
Tình yêu
Có thể nói, ý chí tự do là một trong những nét đẹp được nhiều người dùng để giải thích về chân lý này: con người dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thật vậy, nhờ tự do, con người có thể chọn Thiên Chúa để sống thân mật với Ngài như một mối liên hệ quan trọng nhất trong đời; cũng nhờ tự do, con người có thể sống dấn thân với tất cả tình yêu hầu đi đến với Thiên Chúa là tình yêu. Thiết tưởng, đó là ý định tốt lành của Thiên Chúa; đó là cứu cánh của tự do con người. Nhưng thực tế cho thấy, phần lớn con người đã lạm dụng tự do để sống buông thả, hưởng thụ quá độ, chà đạp nhân phẩm, xúc phạm nhân quyền…tắt một lời, con người tự do làm khổ nhau. Với sự toàn năng của Thiên Chúa, chắc hẳn, Người biết và lường trước những hệ lụy con người gây ra cho nhau. Như thế, Ngài có chịu trách nhiệm phần nào trong những việc này chăng ?
Nếu xét về mặt luân lý, Ngài chẳng làm điều gì ác nên tội để phải chịu trách nhiệm về nó. Hơn nữa, Thiên Chúa không chịu chi phối bởi luật luân lý dưới bất cứ hình thức nào. Bởi đó, Ngài hoàn toàn không chịu trách nhiệm trong tội ác của con người tạo nên. Còn nếu xét trong tương quan giữa Đấng Tạo Hóa và các tạo vật, Thiên Chúa chịu “trách nhiệm” gián tiếp trong khi ban cho con người tự do và biết trước rằng con người có thể lạm dụng tự do và làm điều xấu. Trong khi Thiên Chúa ban tự do cho con người như việc Ngài cho con người thông chia tính toàn năng của Thiên Chúa thì họ lại làm dụng đi ngược với ý định của Ngài. Thế rồi, Thiên Chúa đã chịu trách nhiệm trong tình liên đới với tội lỗi con người. Điều này đã được thánh Phaolô diễn tả tuyệt vời qua câu nói: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5,21). Chính khi Đức Giêsu chết vì tội lỗi chúng ta mà Người đã chịu trách nhiệm và chữa lành những vết thương do con người lạm dụng tự do gây nên. Như thế, việc một số người cho rằng Thiên Chúa đã dửng dưng trước đau khổ của con người là một sai lầm. Thiên Chúa không can thiệp vào lịch sử nhân loại theo ý muốn của con người. Đức Giêsu chẳng xuống thập giá vì một lời thách thức của con người. Dần dà, chúng ta sẽ nhận ra cách hành động của Thiên Chúa: thay vì Ngài rút lại hay ngăn chặn hành động tự do của con người, thì Ngài lại hóa giải từ sự dữ ra sự lành. Thiết tưởng, đó là cách tốt nhất để Thiên Chúa mặc khải Ngài là Đấng toàn năng đầy yêu thương.
Người đồng hành
Chúng ta đã từng nghe câu chuyện về giấc mơ của một chàng thanh niên. Mỗi ngày chàng đi dạo bộ với Chúa Giêsu trên bãi biển rất êm ả và bình yên. Chàng thích thú vì những dấu chân song hành như hai người bạn. Đến một ngày sóng to gió lớn, chàng lại chỉ thấy có một dấu chân. Trong hoảng hốt và sợ hãi, chàng hỏi Chúa đi đâu lúc cuộc đời đầy biến động. Chúa trả lời: “Chính những lúc ấy Ta đang bồng bế con trên tay”. Kinh nghiệm của chàng thanh niên này là một bài học khích lệ chúng ta tin tưởng và phó thác vào tình thương Chúa. Quả thật, Người vẫn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường cuộc sống.
Trong những lúc chúng ta bị hiểu lầm, chối từ, cô lập…thiết tưởng, việc đồng hóa mình vào những nhân vật trong các sách Tin Mừng sẽ là một lợi khí giúp ta dễ dàng vượt qua những đêm tối. Một Madalena bị xã hội lên án, ruồng bỏ…lại được tiếp chuyện với Chúa. Một Giakêu bị xếp vào hàng người bất chính, lại được Chúa đồng bàn ăn uống…Những mảnh đời đau khổ luôn tìm được nguồn nâng đỡ nơi Chúa Giêsu. Đôi khi, chúng ta chỉ cần một câu lời Chúa như lời hứa về một tương lai bất định, làm ánh sáng hướng dẫn bước ta đi. Những lúc chúng ta bị hiểu lầm, đặt điều, bôi nhọ, thì lời hứa: sự thật sẽ giải phóng các con, sẽ là một cái neo bám chặt vào lòng Chúa yêu thương. Điều quan trọng là tránh nổi giận, la lối thóa mạ, vì theo lời thánh Gioan Vianney: “Đau khổ trong an bình, sẽ chẳng còn đau khổ nữa”. Có thể nói, sự bình an trong tâm hồn là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa giữa cơn biến động. Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến là thế !
Xét cho cùng, chỉ trong cơn khốn khó, người ta mới nhận ra đâu là “vàng thật”; chỉ những người xác tín sự hiện diện của Chúa trong đời và chọn Chúa làm ý nghĩa của cuộc sống, mới khả dĩ vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc đời.
Nạn nhân
Một người phụ nữ kia đang đau lòng vì vừa mất đứa con 8 tuổi duy nhất của bà. Cái chết bất ngờ của người con này đã làm tăng nỗi cô đơn trong bà. Trong nỗi tức giận, mê sảng, bà tìm đến Cha xứ, bà hỏi: “Tại sao tôi có một đứa con duy nhất mà Chúa cũng cướp đi ?” Thấy người đàn bà này quá bị kích động, vị linh mục liền nghĩ ra một cách giúp bà giải tỏa, ngài đề nghị: “Đây, tôi gởi bà một cuốn tập, bà hãy tưởng tượng ra Chúa đang có mặt ở đây trước mặt bà và hãy viết những gì bà cần nói”. Và rồi, như một cơ hội bà trút hết sự tức giận lên một vị Thiên Chúa tưởng tượng. Nỗi đau quá lớn khiến bà trở thành một kẻ khát máu; bà không chỉ phỉ nhổ, chưởi rủa Ngài mà còn muốn treo Ngài lên cao giữa trời và đất…Lát sau, bà đã thấm mệt và thiếp đi lúc nào không biết. Vị linh mục vào, bà liền tỉnh dậy và trao lại cuốn tập đã viết với những dòng chữ đầy “máu và lửa”. Đọc xong, vị linh mục nói: “Thế là bà đã giết Thiên Chúa một lần nữa. Phần Ngài, Ngài nói với bà điều gì, bà biết không ?” Bà đáp: “Thưa, không”. Vị linh mục nói: “Chúa bảo rằng xin Cha tha cho bà vì bà không biết việc bà làm”.
Tha cho kẻ muốn giết mình đó là cách thể hiện tình yêu của Thiên Chúa. Chết thay và cứu chuộc cho kẻ giết mình là cách thể hiện tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Chúng ta có thể hỏi Ngài ở đâu trong lúc tôi gặp đau khổ. Ngài là nạn nhân trong kẻ xấu số là bạn. Ngài trở nên bất lực với người bất lực nhưng không tuyệt vọng. Ngài đã chấp nhận để bạn treo Ngài lên thập giá vì tôn trọng tự do của bạn. Chúa muốn bạn dùng tự do để yêu mến Ngài nhưng bạn đã dùng tự do để giết Chúa. Ngài toàn năng nhưng không rút lại tự do của bạn. Ngài không hối hận khi ban tự do cho bạn. Ngài đợi chờ bạn chính nơi bạn đã giết Ngài. Núi Sọ phải trở thành điểm hẹn thường xuyên của bạn khi đang đối diện với những đau khổ hay bất công đời này. Không ai đau khổ hơn Ngài vì bị người yêu phản bội. Không ai chịu bất công như Ngài dù vốn là người vô tội. Bạn có sẵn sàng chấp nhận khổ giá cùng với Đức Kitô để được phục sinh với Người không ? Đó là thách đố và đồng thời là một hồng ân trong cuộc biến đổi. Chúng ta chỉ thực sự biến đổi và trưởng thành trong đau thương. Chúng ta chỉ trở nên vững mạnh sau những lần gục ngã thảm thương. Sau những lần như thế, bạn sẽ ngộ ra thân phận bất lực của con người khi đứng trước đau khổ. Đồng thời, sống phó thác vào Đấng rút từ sự dữ ra sự lành cho những ai yêu mến Ngài.
Tóm lại, chúng ta đã trình bày Thiên Chúa toàn năng và Tình Yêu như một minh giải cho vấn đề đau khổ mà những người vô thần đã dùng để khước từ và phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa. Bởi đó, việc suy tư và đào sâu trong lãnh vực này sẽ giúp chúng ta có một hướng nhìn đúng đắn và thích hợp theo nhãn quan Kitô giáo. Chúng ta cần tái khẳng định rằng đau khổ là một huyền nhiệm, nó gắn liền với cuộc hiện sinh của con người. Thế nên, chúng ta sẽ không có một câu trả lời thỏa đáng mà chỉ là những kinh nghiệm bản thân hết sức chủ quan. Xét cho cùng, chỉ có đau khổ của Đức Kitô mới đích thực là mô phạm của mọi người. Vì khi chiêm ngắm Người trên Thánh Giá, chúng ta nhận ra hình ảnh bản thân. Dần dà, chúng ta nhận ra Người là Đấng rất gần gũi, đang đồng hành và là nạn nhân cùng chịu đau khổ với ta; và nói như thi sĩ Paul Claudel: “Đức Kitô đến không phải để hủy bỏ cũng không phải để giải thích đau khổ, nhưng làm cho đau khổ đầy tràn hiện hữu của Người”.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã là ý nghĩa cuộc đời tôi khi Người hiện diện với tôi trong mọi khoảnh khắc cuộc đời, nhất là trong lúc đau khổ, tưởng chừng như bế tắt và buông xuôi. Người là hy vọng duy nhất cuộc đời tôi.
EYMARD An Mai Đỗ, O.Cist.
Read more…

Thánh Lễ là cuộc gặp gỡ tình yêu với Thiên Chúa

14:58 | Thứ Năm, 16 tháng 11, 2017
Vatican (Vat. 15-11-2017) - Thánh lễ là lời cầu nguyện cao trọng nhất và tuyệt vời nhất, đồng thời cũng cụ thể nhất. Thật vậy, đó là cuộc gặp gỡ tình yêu với Thiên Chúa qua Lời và Mình Máu của Chúa Giêsu. Bí tích Thánh Thể là tiệc cưới, trong đó Chúa Giêsu Phu Quân gặp gỡ sự yếu hèn giòn mỏng của chúng ta để đưa chúng ta trở về với ơn gọi đầu tiên của chúng ta: ơn gọi là hình ảnh của Thiên Chúa và giống Thiên Chúa.Ðức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với mấy chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung hàng tuần sáng thứ tư 15 tháng 11 năm 2017. Trong các đoàn hành hương cũng có nhóm tín hữu Việt Nam đến từ San Jose bắc California.Trong bài huấn dụ Ðức Thánh Cha đã quảng diễn đoạn Phúc Âm đầu chương 11 của thánh sử Luca viết rằng: "Có một lần Ðức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông ." Người bảo các ông: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: "Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Nước Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ ." (Lc 11,1-4).Ðức Thánh Cha nói hôm nay chúng ta tiếp tục các bài giáo lý về Thánh Lễ. Ðể hiểu vẻ đẹp của việc cử hành Thánh Thể tôi muốn trình bầy một khía cạnh rất đơn sơ: Thánh lễ là cầu nguyện, là lời cầu nguyện tuyệt hảo, cao vời nhất và cũng cụ thể nhất. Vì qua Lời, Mình và Máu Chúa Giêsu nó là cuộc gặp gỡ tình yêu với Thiên Chúa. Nhưng trước hết phải hỏi lời cầu nguyện là gì?Ðức Thánh Cha trả lời như sau:Trước hết nó là cuộc đối thoại, là tương quan cá nhân với Thiên Chúa. Con người đã được tạo dựng như là bản vị tương giao chỉ tìm thấy việc thực hiện trọn vẹn chính mình trong cuộc gặp gỡ với Ðấng Tạo Hoá. Con đường cuộc sống là hướng về cuộc gặp gỡ vĩnh viễn với Chúa.Sách Sáng Thế khẳng định rằng con người đã được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa và giông giống Thiên Chúa, là Cha và Con và Thánh Thần, một tương quan tình yêu hoàn hảo là sự hiệp nhất. Từ đó chúng ta có thể hiểu rằng chúng ta tất cả đã được tạo dựng để bước vào trong một liên hệ tình yêu toàn thiện, trong một trao ban chính mình liên tục và nhận lãnh chính mình để có thể tìm ra bản thể trọn vẹn của chúng ta.Tiếp tục bài huấn dụ về Thánh Lễ là cầu nguyện, Ðức Thánh Cha nói: Khi ông Môshê nhận được tiếng gọi của Thiên Chúa trước bụi gai cháy, ông đã hỏi Ngài tên là gì thì Chúa trả lời làm sao? : "Ta là Ðấng Ta là" (Xh 3,1-4) . Kiểu nói này, trong nghĩa nguyên thuỷ của nó, diễn tả sự hiện diện và ân huệ, và thực vậy Thiên Chúa nói thêm ngay sau đó:"Chúa, Thiên Chúa của cha ông người, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Igiaác, Thiên Chúa của Giacóp" (c. 15). Cũng thế khi Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ Ngài, Ngài gọi họ để họ ở với Ngài. Vì thế đây là ơn thánh lớn lao nhất: có thể kinh nghiệm rằng Thánh Lễ, Thánh Thể là lúc đặc ân để ở với Chúa Giêsu, và qua ngài ở với Thiên Chúa Cha và các anh em khác.Cũng như mọi cuộc đối thoại thực sự khác cầu nguyện cũng là biết ở trong thinh lặng - trong các cuộc đối thoại, có những lúc thinh lặng- ở trong thinh lặng cùng với Chúa Giêsu. Và khi chúng ta đi tham dự Thánh Lễ, có lẽ chúng ta tới năm phút trước và bắt đầu nói chuyện bép xép với người bên cạnh. Nhưng đây có phải là lúc bép xép đâu: đây là lúc thinh lặng để chuẩn bị đối thoại. Ðây là lúc cầm lòng cầm trí để chuẩn bị gặp gỡ Chúa Giêsu. Sự thinh lặng quan trọng biết bao! Anh chị em hãy nhớ điều tôi đã nói tuần vừa qua: chúng ta không đi dự một buổi trình diễn văn nghê, chúng ta đi gặp gỡ Chúa và sự thinh lặng chuẩn bị và đồng hành với chúng ta. Ở trong thình lặng cùng với Chúa Giêsu. Từ sự thinh lặng nhiệm mầu của Thiên Chúa nảy sinh ra Lời Ngài vang lên trong con tim chúng ta.Chính Chúa Giêsu dậy cho chúng ta biết làm thế nào để thực sự ở với Thiên Chúa Cha, và chứng minh điều đó cho chúng ta với lời cầu nguyện của Ngài. Các Phúc Âm cho chúng ta thấy Chúa Giêsu rút lui vào các nơi thanh vắng để cầu nguyện. Khi trông thấy tương quan thân tình của Ngài với Thiên Chúa Cha các môn đệ cảm thấy ước muốn có thể tham dự vào đó và xin với Ngài: "Lậy Chúa, xin dậy chúng con cầu nguyện" (Lc 11.1). Chúng ta đã nghe trong bài đọc đầu buổi tiếp kiến. Chúa Giêsu trả lời rằng điều cần thiết đầu tiên để cầu nguyện là biết nói "Lậy Cha". Chúng ta hãy chú ý: nếu tôi không có khả năng nói "Lậy Cha" với Thiên Chúa, thì tôi không có khả năng cầu nguyện. Chúng ta phải học nói "Lậy Cha", nghĩa là đặt mình vào trong sự hiện diện của Ngài với lòng tin tưởng con thảo. Nhưng để có thể học, cần khiêm tốn nhìn nhận rằng chúng ta cần được dậy dỗ và đơn sơ nói rằng: "lậy Chúa, xin dậy con cầu nguyện".Ðức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ:Ðây là điểm đầu tiên: khiêm tốn, thừa nhận mình là con, nghỉ ngơi trong Thiên Chúa Cha, tín thác nơi Ngài. Ðể vào Nước Trời cần trở nên bé nhỏ như các trẻ em. Trong nghĩa các trẻ em biết tín thác , chúng biết rằng có ai đó lo lắng cho chúng, lo cho chúng ăn, lo cho chúng mặc (x. Mt 6,25-32). Ðây là thái độ đầu tiên: tin tưởng và tín thác như trẻ em đối với cha mẹ: biết rằng Thiên Chúa nhớ tới bạn và lo lắng cho bạn, cho bạn, cho tôi, cho chúng ta tất cả.Thái độ thứ hai cũng là thái độ của các trẻ em là để cho mình kinh ngạc. Trẻ em luôn luôn đặt ra hàng ngàn câu hỏi bởi vì nó ước ao khám phá thế giới và kinh ngạc cả trước các vật bé nhỏ, bởi vì tất cả đều mới mẻ đối với nó. Ðể vào Nước Trời cần để cho minh kinh ngạc - tôi xin hỏi - chúng ta có đề cho mình kinh ngạc hay chúng ta nghĩ rằng cầu nguyện là nói với Thiên Chúa như các con vẹt? Không, đó là tín thác và rộng mở con tim để cho mình kinh ngạc. Chúng ta có để cho Thiên Chúa luôn luôn là Thiên Chúa của các ngạc nhiên gây kinh ngạc không? Bởi vì cuộc gặp gỡ với Chúa luôn luôn là một cuộc gặp gỡ sống động. Nó không phải là một cuộc gặp gỡ của viện bảo tàng. Nó là một cuộc gặp gỡ sống động, và chúng ta đi tham dự Thánh Lễ chứ không phải đi thăm viện bào tàng. Chúng ta đi tới một cuộc gặp gỡ sống động với Chúa.Phúc Âm cũng nói tới một ông Nicôđêmô nào đó (Ga 3,1-21), một cụ già, một người quyền thế trong dân Israel, đến gặp Chúa Giêsu để hiểu biết Ngài hơn, và Chúa nói với ông về sự cần thiết "phải tái sinh từ trên cao" (c. 3) Nhưng điều này có nghĩa là gì? Có thể tái sinh không? Có thể có trở lại sự yêu thích, niềm vui, sự kinh ngạc của cuộc sống, kể cả trước các thảm họa hay không? Ðây là một câu hỏi nền tảng của lòng tin và đây cũng là ước mong của mọi tín hữu đích thật: ước mong tái sinh, niềm vui bắt đầu trở lại. Chúng ta có mong ước này không? Mỗi ngưòi trong chúng ta có ước mong luôn luôn tái sinh để gặp Chúa không? Anh chị em có mong ước này không? Thật ra, chúng ta có thể mất nó một cách dễ dàng vì biết bao hoạt động, biết bao chương trình cần thực hiện, sau cùng chúng ta có ít thời giờ còn lại, và chúng ta mất đi điều nền tảng là cuộc sống của con tim, cuộc sống tinh thần của chúng ta, cuộc sống chúng ta là một cuộc gặp gỡ với Chúa trong lời cầu nguyện.Thật thế, Chúa khiến chúng ta kinh ngạc bằng cách chỉ cho chúng ta thấy rằng Ngài yêu thương chúng ta cả trong các yếu hèn của chúng ta nữa. "Chúa Giêsu Kitô là tế vật đền bù tội lỗi chúng ta; không phải chỉ tội lỗi của chúng ta, mà cả tội lỗi của toàn thế giới nữa" (1 Ga 2,2). Ơn đó, suối nguồn của sự an ủi đích thật - Chúa luôn luôn tha thứ cho chúng ta - điều này an ủi, là một an ủi thật, là một ơn đã được ban cho chúng ta qua Thánh Thể, là tiệc cưới, trong đó Phu Quân gặp gỡ sự giòn mỏng của chúng ta. Tôi có thể nói rằng khi tôi rước Chúa trong Thánh Lễ, Chúa gặp gỡ sự giòn mỏng của tôi không? Có, chúng ta có thể nói điều đó, bởi vì nó thật! Chúa gặp gỡ sự giòn mỏng của chúng ta để đưa chúng ta trở về với ơn gọi đầu tiên của chúng ta: ơn gọi là hình ảnh của Thiên Chúa và giông giống Thiên Chúa. Ðó là môi trường của Thánh Thể, đó là lời cầu nguyện.Ðức Thánh Cha đã chào nhiều đoàn hành hương khác nhau đến từ Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ, đặc biệt học sinh trường Ðức Bà Sion Paris. Ngài cầu mong Chúa giúp họ tìm được bản tính toàn vẹn của họ trong cuộc gặp gỡ với Chúa qua lời cầu nguyện và bí tích Thánh Thể. Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ Anh quốc, Ðan Mạch, Hoà Lan, Philippines Hồng Kông và Hoà Kỳ, cũng như các nhóm đến từ các nước nói tiếng Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha. Ngài cầu chúc chuyến hành hương Roma củng cố họ trong tình hiệp thông và tinh thần yêu thương và phục vụ người nghèo, các bệnh nhân và những người cần được trợ giúp nhất.Chào các nhóm Ba Lan Ðức Thánh Cha hy vọng chuyến hành hương là thời gian giúp họ cầu nguyện, và sống lại chứng tá đức tin của các tông đồ và các vị tử đạo, cũng như gia tăng tình yêu và lòng hy vọng mà bí tích Thánh Thể là tuyệt đỉnh.Trong các nhóm tiếng Ý Ðức Thánh Cha chào các tu sĩ dòng Capucino hèn mọn đang tham dự đại hội quốc tế về việc đào tạo trong dòng; các trẻ em chịu phép Thêm Sức vùng San Michele Salentino và Fiumicino; ban điều hành các hiệp hội giới trẻ bị bệnh tiểu đường, và ban nhạc vùng Reggio Calabria. Ðức Thánh Cha nói ngài muốn nghe họ chơi nhạc sau đó.Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn Ðức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết thứ tư Giáo Hội kính nhớ thánh Alberto Cả, Giám Mục tiến sĩ Giáo Hội. Ngài khuyên người trẻ củng cố cuộc đối thoại với Chúa, các bệnh nhân tìm thấy sự ủi an khi suy niệm cuộc Khổ nạn của Chúa; các cặp vợ chồng mới cưới duy trì tương quan thường hằng với Chúa để cho tình yêu của họ phản ánh tình yêu của Thiên Chúa.Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh Ðức Thánh Cha ban cho mọi người.
Linh Tiến Khải(Radio Vatican)
Read more…

Tại sao lại đi tu?

16:37 | Thứ Tư, 15 tháng 11, 2017
Bạn thân mến,
Là tu sĩ, tôi thường được nhiều người hỏi: “Tại sao bạn lại đi tu”?
Với tôi hoặc bất cứ người tu sĩ nào, hẳn đây là câu hỏi ý nghĩa và quan trọng. Ý nghĩa vì nó giúp tu sĩ định hướng được cuộc đời mình khuôn theo tiếng gọi của Thiên Chúa. Và quan trọng vì khi tìm thấy động lực ơn gọi và đáp trả tiếng gọi của Chúa, người tu sĩ nhận được niềm vui bình an để tiến bước. Tuy nhiên trước câu hỏi này, người tu sĩ không thể trả lời rốt ráo một lần. Đó là cả một hành trình đời tu, để trước Thiên Chúa, người tu sĩ được mời gọi làm mới lại ơn gọi tu trì của mình. Bởi đó, mỗi lần nghe người khác hỏi mình, hoặc chính mình chất vấn bản thân: “Tại sao lại đi tu?”, hy vọng đó là cơ hội để người tu sĩ gần hơn với Thiên Chúa.
Nhớ lại thời Đức Giêsu, Ngài kêu gọi mười hai tông đồ để đi theo Ngài. Một cách nào đó, họ là những tu sĩ đầu tiên và trực tiếp được Đức Giêsu gọi chọn để ở với Ngài. Trong hành trình ấy, Tin Mừng thuật lại nhiều câu chuyện cho thấy các ông không phải lúc nào cũng muốn theo Thầy Giêsu một cách trọn vẹn. Hơn nữa, không ít lần các ông đi theo Thầy chỉ để được tiếng tăm, quyền lực, được lợi lộc trần gian. Do đó đứng trước lời tiên báo rằng Thầy sẽ phải chịu chết, chịu bách hại, họ phản đối hoặc làm ngơ. Chỉ sau khi Đức Giêsu phục sinh, các ông mới theo Giêsu một cách trọn vẹn, dám sống chết để loan báo Tin mừng, làm chứng cho Thầy.
Tu sĩ thời nào cũng luôn là người được Thiên Chúa mời gọi để bước theo Thầy Giêsu. Trên con đường ấy người tu sĩ được mời gọi từ bỏ mọi thứ để làm vinh danh Chúa hơn. Đây đó nhiều người tưởng các tu sĩ đi tu để tìm quyền cao chức trọng, an nhàn sung túc. Đúng là những thứ đó luôn cám dỗ, bủa vây người tu sĩ, khiến họ vất vả chiến đấu để loại bỏ từng ngày. Người tu sĩ mong ước mỗi ngày vươn đến lòng mến nồng nàn với Đấng mà họ khấn hứa bước theo. Điều ấy có nghĩa là người tu sĩ không tìm lợi lộc cho riêng mình, nhưng hoàn toàn để Thiên Chúa được cả sáng, ý Cha được trọn lành trong sứ mạng và cuộc đời người tu sĩ.
Ngoài câu hỏi trên, bạn bè tôi thường hỏi thêm “Đi tu có sướng không, có tự do không”? Cảm ơn bạn đã hỏi, đã giúp tôi nhìn lại ơn gọi để tiếp tục bước tới với Thầy Giêsu. Dĩ nhiên hiếm người tu sĩ nào một sớm một chiều mà hoàn toàn biết Thiên Chúa muốn mình bước vào con đường dâng hiến. Đó là một hành trình đời tu. Mỗi ngày đứng trước câu hỏi ấy, mình thấy đời tu vẫn còn hấp dẫn và cho mình hạnh phúc vì có Thầy Giêsu, thế là mình tự do bước tiếp!
Dĩ nhiên đi tu không sung sướng hoặc an nhàn theo kiểu thế gian như người ta thường nghĩ. Cũng như bao người muốn hạnh phúc và thành công, người tu sĩ cũng phải tập chiến đấu với những cám dỗ thế gian. Họ được mời gọi để học hành nghiêm túc, cầu nguyện liên lỷ, huấn luyện lâu dài và từ bỏ mỗi ngày. Rồi trong cánh đồng sứ mạng, họ vui buồn với Thầy Giêsu trong những công việc phục vụ hằng ngày. Họ ước mong mang về cho Thiên Chúa càng nhiều linh hồn càng tốt. Dẫu đời tu có vất vả khó khăn, nhưng người tu sĩ không cho phép mình bỏ buộc. Hơn nữa, họ được ban nhiều bình an trong tâm hồn, vì họ có được tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Đó là chìa khóa để giúp họ sống vui phục vụ.
Bạn biết đấy, mỗi ơn gọi đều có những nét đẹp riêng. Ơn gọi gia đình cho người ta hạnh phúc bên mái ấm gia đình. Từng thành viên được mời gọi để sống theo ý Chúa cụ thể trong gia đình mình. Đời tu cung thế. Người tu sĩ thấy mình hạnh phúc để chu toàn những điều kiện khi bước theo Thầy Giêsu. Điều kiện ấy là từ bỏ mọi sự, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy. Do đó họ vui sống ba lời khấn: khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Vậy bạn hỏi “Tại sao người ta lại đi tu?”, chắn hẳn tại vì họ muốn sống theo những lời mời gọi này của Thầy Giêsu dành cho họ. Ngài không gọi mọi người phải trở nên người tu sĩ, nhưng Ngài chỉ chọn riêng những ai Ngài muốn. Đó là ơn gọi tu trì. Còn người khác, Ngài muốn họ hạnh phúc bước vào một ơn gọi khác.
Đứng trước câu hỏi trên, chắc hẳn mỗi người tu sĩ đều có câu trả lời cho riêng mình. Ước mong mỗi ngày câu trả lời cũng chính là cuộc sống triển nở của người tu sĩ, gần hơn với Thầy Chí Thánh. Được như thế, cuộc sống tu trì không sầu buồn như lắm người tưởng, không chán ngán như nhiều người nghĩ. Ngược lại, đó là cuộc sống của hạnh phúc bình an trong tâm hồn, của niềm vui khi bước theo Thầy Giêsu trong muôn nẻo đường sứ mạng.
Chia sẻ vài điều với bạn, hy vọng bạn cũng cầu nguyện thêm cho các tu sĩ. Chúng ta cầu chúc cho họ từng ngày họ nhận được niềm vui của Thầy Giêsu. Hy vọng họ không biến đời tu thành một nghề nghiệp đơn thuần để tìm vinh hoa quyền thế. Ngược lại, ước sao mỗi người sống đời thành hiến tự do đáp lại lời mời gọi từ bỏ mọi sự của Thầy Giêsu trong niềm vui và bình an. Được như thế chúng ta tin rằng đi tu là để sống vui với Giêsu và thuộc trọn về Giêsu trong cuộc sống hằng ngày.
Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
Read more…

Phép lạ của Mẹ Maria qua tràng hạt Mân Côi

09:02 | Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017
Sau đây là chuyện của đứa con hoang đàng mà Mẹ tìm được và đưa nó trở về bên lòng Cha nhân từ.  Mẹ đã “trói” nó lại bằng giây xích tình yêu để nó không bao giờ xa lìa Cha nó nữa.  “Giây xích” ấy được Mẹ kết bằng những hoa hồng Mân Côi.
Tôi được sinh ra trong một gia đình Công Giáo và được cha mẹ cho đi học trường các dì phước.  Dạo ấy, tôi vẫn còn nhỏ lắm nên chưa ý thức được thế nào là giữ đạo.  Chỉ đi Lễ Chúa Nhật và các ngày lễ buộc vì cha mẹ bắt phải đi và vì sợ mắc tội trọng.
Tôi tiếp tục sống cuộc sống như thế sau khi rời khỏi Việt Nam.  Thời gian trôi qua, với những thú vui, những quyến rũ của thế gian đã dần dần kéo tôi xa Chúa.  Thánh lễ Chúa Nhật đối với tôi lúc ấy như là một cái gì dư thừa và vô ích; vui thì đi nhà thờ, buồn thì tôi ở nhà hoặc đi chơi với bạn bè. Những ý thức về tội cũng dần dần biến đi.  Tôi thanh thản kéo dài cuộc sống trong tăm tối như thế cho đến một ngày…
Mẹ Maria vẫn hằng theo dõi bước chân tôi trên mọi nẽo đường tôi đi để đưa tôi trở về cùng Chúa mà tôi nào có hay!
Ngày nọ, vào khoảng năm 1993, anh tôi đến thăm vợ chồng tôi, và trước khi ra về, anh ấy hỏi chúng tôi có biết lần hạt Mân Côi không.  Tôi nói rằng lần chuỗi thì biết nhưng không biết suy gẫm các Mầu Nhiệm.  Mấy ngày sau anh tôi trở lại và cho chúng tôi mượn quyển sách có tựa đề là “Bí Mật Kinh Mân Côi” của Thánh Louis-Marie-de-Montfort.  Tôi nhận lấy vì sợ nếu tôi từ chối sẽ làm anh tôi buồn.  Trong lòng thì chẳng thiết tha đọc thứ sách mà tôi cho là chán nhất, vì tôi chỉ đọc tiểu thuyết mà thôi.
Một ngày kia, vợ chồng tôi rủ nhau đi bơi, vì không có sách nào khác để mang  theo đọc nên đành lấy theo sách Bí Mật Kinh Mân Côi.
Thấy những phép lạ Mẹ Maria làm qua Kinh Mân Côi, chúng tôi nói với nhau rằng:  “Mình đọc thử Kinh Mân Côi xem sao”.  Danh từ “đọc thử” bao gồm ý  nghĩa rằng tôi không tin và còn muốn thử thách Mẹ Maria.  Vậy mà Mẹ không quở phạt và như là âu yếm tươi cười thách đố vợ chồng tôi:  “thì hai con cứ thử đọc kinh Mân Côi đi…”.
Sau tám tháng trời lần hạt Mân Côi, ban đầu chỉ một chuỗi một ngày, nhưng thật là nhạt nhẽo và nặng nề, lại còn thêm chia trí, nhưng chúng tôi vẫn kiên trì hình như là do lòng tò mò thúc đẩy. Thế rồi 2 chuỗi, 3 chuỗi một ngày cho đến lúc việc lần hạt Mân Côi như là cơm bánh hằng ngày, không có thì như thiếu thốn điều gì.
Cuộc đời chúng tôi dần dần thay đổi, những thú vui trần thế mà hồi nào tôi cho là niềm hạnh phúc thì giờ đây lại trở thành hư vô.  Nào là những buổi tối đi cinéma, những buổi họp bạn, ca hát Karaoke thâu đêm…   Tất cả giờ đây đều làm tôi chán ngán, tôi thầm nghĩ sao hồi đó mình ngu thế không biết, những thứ đó có gì đâu mà vui, để cho mình phải tốn thì giờ, tốn tiền và tổn hại cho sức khỏe.  Và đó là phép lạ mà Mẹ Maria đã làm cho linh hồn tôi.
Nhưng Mẹ lại còn củng cố đức tin của tôi bằng một phép lạ bên ngoài.  Ngày nọ, đang lúc ngủ mê, tôi bỗng giựt mình thức giấc vì một mùi thơm nồng nàn của hoa hồng, thơm loan ra cả phòng tôi.  Nữa mê nữa tỉnh tôi ngỡ rằng có lẽ tôi làm rơi chai dầu thơm hoa hồng, nhưng nào có phải, tôi đâu bao giờ xài dầu thơm hoa hồng!
Mùi hoa hồng là sự hiện diện của Mẹ Maria, mùi thơm của hoa hồng trên Thiên Quốc chứ không phải của thế gian này, và rồi chuỗi mân côi của tôi cũng thơm, cả năm trời như thế.
Tôi  vui mừng lắm vì hiểu rằng có lẽ Mẹ thật vui lòng vì thấy tôi trở về cùng Chúa.  Dần dần Mẹ dẫn tôi đến Chúa.   Lúc nào Mẹ cũng thế, không bao giờ Mẹ giữ điều gì cho riêng mình, mục đích của Mẹ vẫn là Chúa Giêsu.  Mẹ dẫn tôi đến nhà thờ, nơi mà tôi đã xa cách từ lâu lắm rồi.  Bắt đầu bằng Thánh Lễ Chúa Nhật, dĩ nhiên là Mẹ dẫn tôi đến Toà Giải Tội trước tiên.  Tôi còn nhớ, chưa bao giờ tôi xưng tội tha thiết như vậy, nước mắt cứ lăn dài trên má.  Hết Thánh lễ Chúa Nhật rồi thì Thánh Lễ thứ Bảy, cứ thế mà tiếp tục, cho đến bây giờ thì vợ chồng tôi khao khát Chúa Giêsu Thánh Thể đến nỗi không bỏ một Thánh lễ nào, kể cả những ngày trong tuần.
Một đêm nọ tôi nằm mơ thấy Mẹ Mân Côi, tay cầm tràng hạt như trong những bức tượng mà tôi thường thấy qua, tôi thấy cả chính tôi trong giấc mơ, tôi đang cầm sợi giây roi và quất vào một cái gì đó.  Mẹ nói với tôi : “Mỗi một kinh Kính Mừng con đọc trong tràn hạt Mân Côi là mỗi roi đòn con quất Satan đó”.
Có những đêm thức trắng, ngồi bên bàn thờ nhỏ trong phòng, tôi chẳng cầu nguyện được gì, nhưng chỉ biết khóc, cho đến lúc mặt trời mọc. Những giọt lệ ăn năn sao mà ngọt ngào quá!  Nó là những thuốc thơm xoa dịu những vết thương trên thân thể Chúa tôi.  Phải, những roi đòn, mão gai và đinh sắt vẫn còn in sâu trên mình Chúa bởi những tội lỗi tôi đã phạm…  Và Chúa đã nhận lấy những giọt nước mắt thống hối này.  Ngài đã tỏ ra bằng một mùi thơm trầm hương pha lẫn hoa huệ, toả ra từ bàn thờ.  Mùa hương đó thật nồng nàn, và  được tái diễn cả tháng này qua tháng nọ; mỗi khi tôi lần hạt Mân Côi và tâm sự với Chúa, ngay cả những lúc tôi ngủ say, thể như Chúa nói với tôi:  “Cha luôn ở bên con, đừng lìa xa Cha nữa”.
Chúa ôi! con cảm tạ Chúa đã nhẫn nại chờ đợi con quay trở về cùng Chúa mà không để con chết trong lúc linh hồn con đắm chìm trong bóng đêm tội lỗi.
Lạy Mẹ Maria! không có Mẹ thì con sẽ ra sao?  Vì con chẳng đáng được Chúa thứ tha, chỉ đáng bị luận phạt mà thôi.
Bạn đọc thân mến! những dòng chữ này được viết bằng nước mắt của một linh hồn thống hối ăn năn.  Tôi khóc vì tội lỗi mình gây bao nhiêu đau đớn cho Chúa và Mẹ Maria, tôi còn khóc vì cảm nghiệm thế nào là Lòng Thương Xót vô bến bờ của Chúa dành cho linh hồn tôi nói riêng, và Lòng Thương Xót đó còn trải dài và tuôn đổ xuống mỗi linh hồn chúng ta.  Hãy trở về! hãy trở về cùng Cha nhân từ, Ngài đang mỏi mắt trông chờ chúng ta từng phút từng giây.
Còn một điều tôi muốn tỏ cùng bạn đọc.  Trong thời gian tôi lần hạt Mân Côi và được Mẹ ban ơn trở về cùng Chúa, Satan rất tức giận.  Hắn ta tung ra những mánh lới hầu làm vợ chồng tôi hoảng sợ mà bỏ không lần hạt nữa.
Rất nhiều hiện tượng xảy ra nhưng vì để tránh dài dòng nên tôi không viết ra chi tiết.  Chỉ xin bạn đọc đặt câu hỏi:  “vì sao hắn ta lại làm như thế?”.
Cũng chỉ vì Kinh Mân Côi đã phá tan mưu chước của nó, và giật khỏi tay nó biết bao nhiêu là linh hồn!  Nhưng đừng sợ, đã có Mẹ Maria là sức mạnh của chúng ta, hãy “trở nên những gót chân của Mẹ để đạp đầu Satan” (lời Mẹ nói với cha Stephano Gobbi, Phong Trào Linh Mục Dức Mẹ)
Hỡi những linh hồn đau khổ, cô đơn, không tìm được hạnh phúc của cuộc đời và không định được hướng đi.  Bạn đừng chán nản, hãy đến bên Mẹ Maria bằng phép lần hạt Mân Côi.  Mẹ sẽ ban cho bạn hạnh phúc tuyệt hảo là chính Chúa Giêsu, con Chí Thánh của Mẹ.  Chúa Giêsu sẽ lấp đầy khoảng trống trong tâm hồn bạn bằng chính Ngài.  Rồi đây bạn sẽ chẳng còn mơ ước gì nữa, ngoài việc yêu mến Chúa và Mẹ Maria và làm cho các Ngài được mến yêu.
Hỡi những linh hồn thánh thiện!  bạn có muốn làm vui lòng Chúa Giêsu không?  Còn gì làm vui lòng Chúa hơn là khi Chúa thấy người Mẹ dấu yêu của Chúa được các con cái yêu mến và cậy tin!
Vậy hãy sùng kính Mẹ Maria hơn nữa, hãy nghe lời Mẹ dạy trong những lần Mẹ hiện ra đây đó trên khắp thế giới  “các con hãy lần hạt Mân Côi”.  Tôi xin bạn đừng xem thường phép lần hạt Mân Côi và cho rằng  đó là những lời  kinh vô nghĩa, mất thì giờ.  Kinh Mân Côi là khí giới của bạn đấy!  Cha Thánh Pio, Năm Dấu khi đau đớn trên giường, gọi một thày và nói :  “hãy đưa cho tôi khí giới của tôi”.  Vật gì mà ngài gọi là  khí giới của ngài?  Đó là sâu chuỗi đó các bạn.
 
Hãy yêu mến Mẹ đi, Mẹ sẽ làm bạn nên thánh như Mẹ đã làm cho các Thánh khi các ngài còn trên dương thế.  Mẹ sẽ dẫn chúng ta đến tận Thánh Tâm Chúa Giêsu bằng con đường tắt, vừa ngắn gọn, vừa êm ái.
Tôi xin chấm dứt bài viết này bằng lời nguyện mà Chúa đã dạy tôi trong một giấc mơ:
“Lạy Chúa, con ví mình như cánh lục bình kia;
Còn Chúa là Giòng Sông
Lục bình không thể nào sống tách rời Con Nước kia được
Dù bao nhiêu bão táp, cuối cùng rồi Chúa cũng đưa con về đến bến bình yên”.
Lạy Mẹ Maria! con nguyện đền đáp ơn Mẹ bằng cách khuyến khích mọi người con quen biết lần hạt Mân Côi và nhất là yêu mến Mẹ, sẵn sàng tận hiến cho Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ để Mẹ dạy dỗ chúng con luôn sống sao đẹp lòng Chúa và cuối cùng được hưởng phúc Thiên đàng, là nơi Chúa dọn sẵn chỗ chờ đợi mỗi người chúng con.  Xin cho con nguyện “lấy tình đáp tình” Mẹ nhé.
Lucia M.T.
Read more…

Đức Maria Mẹ của ơn hòa giải

08:57 | Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017
Mẹ sẽ đau khổ biết bao khi đoàn con sống bất hoà với nhau, và nhất là không đón nhận ơn hoà giải đến từ Con Dấu Yêu của Mẹ là Đức Giêsu Kitô.
“Trong sự liên kết của Mẹ với các môn đệ Chúa và một vài người phụ nữ khác, “chúng ta cũng nhìn nhận Mẹ qua lời khẩn khoản nài xin các ơn của Chúa Thánh Thần, đấng đã “rợp bóng” trên người trong biến cố Truyền Tin” (GLHTCG).
Mỗi khi chúng ta tìm về bên Mẹ Maria là chúng ta tìm về với dòng suối mát trong lành, bởi nơi Mẹ tuôn trào lòng yêu thương, vỗ về và nâng đỡ. Tìm về bên Mẹ là ta cậy nhờ Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Giêsu Con Mẹ. Về bên Mẹ là đáp đền tình thương của Mẹ bằng cõi lòng và bằng cả đời sống chúng ta.
Trong lòng tin của người tín hữu, Đức Maria là một người Mẹ trên bình diện ơn thánh. Mẹ Maria đã bày tỏ thiên chức làm Mẹ ngay khi Mẹ tín thác và ưng thuận trong biến cố Truyền Tin, và cả sự ưng thuận mà chính Mẹ đã không ngần ngại đứng kề bên Thập Giá cho đến khi hoàn tất chương trình cứu rỗi nhân loại. Quả thật, ngay sau khi về Nước Trời thì vai trò của Mẹ Maria trong nhiệm cục cứu độ không chấm dứt, nhưng Mẹ vẫn hằng cầu bầu cùng Chúa để đem lại cho chúng ta mọi ân huệ thiêng liêng giúp tận hưởng phần phúc đời đời. Mẹ thật trở nên người Mẹ đầy lòng từ bi nhân ái. Mẹ là Mẹ Ơn Hoà Giải, Mẹ trở nên Đấng Giao Hoà và hằng dẫn con cái Mẹ về cùng Thiên Chúa Tình Yêu.
Noi gương Mẹ mỗi ngày cũng chính là lúc để con cái Mẹ nhìn lại chặng hành trình đời sống đức tin ngang qua lòng sùng kính Mẹ cách đúng đắn và làm đẹp lòng Mẹ nhất. Hơn khi nào hết, giữa một thế giới như thế giới chúng ta đang sống hôm nay, rõ ràng mỗi ngày càng trở nên tục hoá cách trầm trọng, đang chối bỏ và loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, đang áp bức và bách hại con cái Chúa cách bất công, phi nhân đạo trên mọi miền thế giới, thì lúc ấy con cái Mẹ lại cần phải cải thiện đời sống của mình sao cho xứng với tinh thần Tin Mừng và giáo huấn của Hội thánh.
Mỗi khi về hành hương bên Mẹ, có lẽ cộng đoàn không thể nào quên, trong những lần Mẹ hiện ra đây đó, Mẹ vẫn hằng tha thiết nhắn nhủ và mời gọi nhân loại hãy yêu thương, chia sẻ tình thương cho nhau, hãy thành tâm ăn năn sám hối, canh tân đời sống và hãy luôn siêng năng cầu nguyện.
Cũng chính vì lẽ đó, là những kitô hữu và đồng thời là con thảo yêu mến Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp, chúng ta sẽ không đành lòng thờ ơ quên lãng hay để cho lời nhắn nhủ kêu mời vô cùng thành khẩn của Mẹ trở nên “tiếng kêu vô vọng trong sa mạc”, nhưng là sống chân thành, nhiệt liệt và quảng đại đáp lại với thái độ dứt khoát đổi đời, và không ngừng cải thiện cách cụ thể chính đời sống mình.
Lạy Thiên Toàn Năng, chúng con xin hợp chung tâm tình với Đức Trinh Nữ Maria, xin ngàn đời cảm tạ Thiên Chúa Ba Ngôi: là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, đã đặt để cho chúng con một chương trình cứu độ đầy tình thương, và lại ban cho chúng con một người Mẹ với mẫu gương tuyệt hảo về lòng tin. Chúng con xin hết lòng chúc tụng ngợi khen tình thương cao cả lạ lùng ấy. Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi luôn ngự trị nơi tâm hồn và đời sống chúng con.
Lạy Mẹ Maria, trong hết những vẻ đẹp tinh tuyền thánh thiện chúng con gẫm suy về Mẹ, không vẻ đẹp nào lại không làm cho chúng con thêm lòng cảm mến và ước mong được sống đẹp lòng Mẹ. Chính nhờ thế, với tước hiệu là Mẹ Ơn Hoà Giải, chúng con thầy ấm lòng vì sự hiện diện của Mẹ, sẽ là sự thúc đẩy dịu dàng cho việc hiệp nhất của chính bản thân, của gia đình, hội đoàn và toàn thể Hội Thánh chúng con. Với lòng từ mẫu nơi Mẹ, chúng con biết rằng Mẹ sẽ đau khổ biết bao khi đoàn con sống bất hoà với nhau, và nhất là không đón nhận ơn hoà giải đến từ Con Dấu Yêu của Mẹ là Đức Giêsu Kitô. Khấn xin Mẹ thương nhìn đến sự lâm nguy của tâm hồn chúng con, dù là chúng con ý thức hay chưa ý thức mà vẫn kêu xin Mẹ đoái thương nhìn đến, xin Mẹ thương phù trợ và nâng đỡ cuộc sống chúng con.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ Ơn Hoà Giải, xin Mẹ dẫn chúng con đến cùng Thiên Chúa, đến cùng Chúa Giêsu Con Mẹ. Khấn xin Mẹ thương giúp chúng con có đủ can đảm và nghị lực biết lắng nghe lời nhắn nhủ kêu gọi đầy tình mẫu tử của Mẹ, mà sống cải thiên tâm hồn và đời sống chúng con theo tình thần Tin Mừng và Giáo huấn của Hội thánh Chúa. Amen.
Anphongso Học
Read more…

Phải luôn luôn tha thứ cho nhau

10:45 | Thứ Ba, 19 tháng 9, 2017
Với lòng thương xót vô bờ Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta mọi tội lỗi vừa khi chúng ta chỉ tỏ lộ một dấu chỉ sám hối dù nhỏ bé đi nữa. Chính vì thế chúng ta cũng phải luôn luôn tha thứ cho nhau. Con người được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa luôn luôn lớn hơn sự dữ nó phạm.
ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hàng ngàn tín trong buổi đọc kinh Truyền Tin  trưa Chúa Nhật hôm qua.
Quảng diễn bài Phúc Âm kể lại dụ ngôn ông chủ quảng đại tha nợ cho người đầy tớ  van nài ông (Mt 18,21-35) ĐTC nói qua đó Chúa Giêsu không chỉ dậy chúng ta tha thứ, mà cũng thừa nhận rằng con người vì được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa nên dù có phạm tội gây ra bất công, vẫn luôn luôn lớn lao hơn tội nó phạm. Thánh Phêrô hỏi: “Nếu người anh em phạm lỗi chống lại con, con phải tha cho họ bao nhiêu lần? Có phải  bẩy lần không?” (c. 21) Đối với thánh Phêrô thật đã là tột đỉnh tha cho cùng một người tới 7 lần; và đối với chúng ta có lẽ đã nhiều lắm, khi làm hai lần như thế. Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Thầy không bảo con bảy lần nhưng bẩy mươi lần bẩy” (.22) nghĩa là luôn luôn. Con phải tha thứ luôn luôn. Và Ngài xác nhận điều đó bằng cách kể lại dụ ngôn ông vua thương xót và người đầy tớ tàn ác, trong đó Ngài cho thấy sự không trung thực của người trước đó đã được tha nợ nhưng rồi lại khước từ tha thứ.
Ông vua của dụ ngôn là một người quảng đại, vì cảm thương nên tha một món nợ khổng lồ “mười ngàn nén bạc”- khổng lồ,  cho một đầy tớ van nài ông. Nhưng chính người đầy tớ ấy , vừa gặp một đầy tớ khác như anh nợ anh một trăm đồng - nghĩa là rất ít hơn nhiều - lại hành xử một cách không thương xót, bằng cách ném người đó vào tù. ĐTC nói:
Thái độ không trung thực của người đầy tớ này cũng là thái độ của chúng ta, khi chúng ta từ chối tha cho các người anh em của chúng ta. Trong khi ông vua của dụ ngôn là hình ảnh của Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta với một tình yêu giầu lòng thương xót như thế, đến độ tiếp đón, yêu thương và liên tục tha thứ cho chúng ta.
Ngay khi chúng ta được rửa tội Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta, tha cho chúng ta một món nợ không thể trả được là tội nguyên tổ. Nhưng đây là lần đầu tiên. Rồi với một lòng thương xót vô bờ Ngài tha thứ cho chúng ta tất cả mọi lỗi lầm, vừa khi chúng ta cho thấy một dấu chỉ nhỏ của sự hối hận. Thiên Chúa là như thế: thương xót. Khi chúng ta bị cám dỗ khép kín con tim của mình với người đã xúc phạm đến chúng ta và xin lỗi chúng ta, chúng ta hãy nhớ tới các lời Thiên Chúa Cha trên trời nói với người đầy tớ không thương xót: “Ta đã tha tất cả món nợ cho ngươi vì ngươi van xin Ta. Ngươi lại không phải thương xót anh bạn của ngươi, như Ta đã thương xót ngươi hay sao?” (cc.32.33). Bất cứ ai đã sống kinh nghiệm niềm vui, sự an bình và tự do nội tâm, đến từ việc được tha thứ, thì tới lượt mình có thể rộng mở cho khả năng tha thứ.
Trong Kinh Lậy Cha Chúa Giêsu đã muốn đưa chính giáo huấn của dụ ngôn này vào. Ngài đã đặt trong tương quan trực tiếp sự tha thứ mà chúng ta xin với Thiên Chúa với sự tha thứ mà chúng ta phải trao ban cho các người anh em khác của chúng ta. “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12). ĐTC giải thích điểm này như sau:
Sự tha thứ của Thiên Chúa là dấu chỉ tình yêu tràn bờ của Ngài đối với từng người trong chúng ta; đó là tình yêu để cho chúng ta tự do xa rời, như người con hoang đàng, nhưng chờ đợi chúng ta trở về mỗi ngày; đó là tình yêu hoạt động của người mục tử đối với con chiên lạc; đó là sự hiền dịu tiếp dón mọi người tội lỗi gõ cửa nhà Ngài.
 Thiên Chúa Cha trên trời, Cha chúng ta, tràn đầy tình yêu thương, tràn đầy tình yêu thương và muốn cống hiến nó cho chúng ta, nhưng Ngài không thể làm điều đó nếu chúng ta khép kín con tim cho tình yêu đối với các người khác.
Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta luôn luôn ý thức được sự nhưng không và vĩ đại của ơn tha thứ nhận được từ Thiên Chúa, để trở nên thương xót như Ngài, là Cha nhân từ, chậm giận và lớn lao trong tình yêu.
Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.
Sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã chào tín hữu đến từ nhiều nơi trên thế giới, trong đó có đoàn hành hương La Plata của Argentina, các sĩ quan trường quân đội Colombia và các giáo lý viên vùng Rho.
Ngài cũng chào các tham dự viên cuộc chạy Con đường hoà bình qua nhiều nơi phụng tự của các Giáo Hội hiện diện tại Roma. Ngài cầu chúc sáng kiến văn hoá và thể thao này có thể tạo thuận tiện cho cuộc đối thoại, sự chung sống và hoà bình.
ĐTC cũng chào nhiều bạn trẻ đến từ đền thánh Đức Bà Loreto trung Italia, do các cha dòng Capucini tháp tùng. Họ bắt đầu với một ngày suy tư nguyện gẫm. Ngài nói: “các bạn đem hương thơm của Đền thánh Nhà Đức Mẹ đến cho chúng tôi, xin cám ơn”. Ngài cũng chào các thiện nguyện viên “Pro Loco” và những người đi bộ bắt đầu cuộc thi hôm qua tại Assisi và chúc họ đi bộ giỏi. Sau cùng ĐTC xin mọi người đừng quên cầu nguyện cho ngài.
Linh Tiến Khải
Nguồn: VietVatican
Read more…

Cám Ơn Mẹ --- Lễ Sinh Nhật Đức Mẹ

20:58 | Thứ Tư, 6 tháng 9, 2017
Lễ Sinh nhật Đức Mẹ ngày 8 tháng 9; đúng 9 tháng sau lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, ngày 8 tháng 12. Ngày Đức Trinh Nữ Maria chào đời là khởi đầu cho mùa cứu rỗi, như bình minh báo hiệu một ngày tươi sáng cho nhân loại. Mẹ như “sao mai” dẫn lối loài người, như “rạng đông” báo hiệu mặt trời.
Ngay từ thế kỷ VI, cả Giáo hội Đông phương cũng như Tây Phương đã cử hành lễ mừng kính sinh nhật Đức Mẹ. Đến thế kỷ X, lễ mừng được phổ biến phắp nơi và trở thành một trong các lễ chính mừng kính Đức Mẹ. Vào thế kỷ XII, lễ này còn kéo dài thành tuần bát nhật, theo lời hứa của các Đức Hồng Y họp mật nghị để bầu giáo hoàng. Các ngài hứa sẽ thiết lập tuần bát nhật để tạ ơn Đức Mẹ nếu có thể vượt qua được các chia rẽ vì cuộc vận động của vua Frédéric và sự bất mãn của dân chúng. Đức Giáo hoàng Célestinô V đắc cử cai quản có 18 ngày nên chưa thực hiện được lời hứa. Giữa thế kỷ XIII, Đức Innocentê đã hoàn thành lời hứa này.
Giáo Hội hân hoan mừng ngày sinh nhật của Đức Trinh Nữ Maria. Chúc tụng, cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho nhân loai một người Mẹ tuyệt mỹ là Đức Maria. "Ngày hôm nay bà Anna hiếm muộn vỗ tay reo mừng, trái đất bừng sáng, các vua hát mừng, các tư tế hân hoan chúc lành, toàn thể vũ trụ vui mừng, vì ngài là hoàng hậu và là nàng dâu tinh khiết của Chúa Cha đã nẩy sinh từ gốc Jesse" (phỏng theo Kinh Nhật Tụng của Ðông Phương).
Đức Maria " là con ông thánh Gioakim và bà thánh Anna. Cả hai ông bà đều bởi dòng dõi vua Đavít, và gia đình thầy cả thượng phẩm Aaron. Thiên Chúa đã cho hai ông bà sinh được một người con quý báu trên đời là để thưởng công đức của hai ông bà. Nếu việc Đức Maria sinh ra làm cho thế gian vui mừng, thì cũng biết là gia đình ông thánh Gioakim vui sướng biết chừng nào. Sau khi sinh con được tám ngày, theo thông lệ, ông bà song thân đã đặt tên con gái là MARIA, nghĩa là Sao Biển " (Sách hạnh các thánh). 
Một bé gái được sinh ra ở ngôi làng Nadarét, thuộc vùng Galilê, nước Do Thái, cách đây hơn hai mươi thế kỷ. Trong một xã hội trọng nam khinh nữ, điều ấy đâu có gì là quan trọng! Nhưng dưới mắt Thiên Chúa, em bé này thật là một kiệt tác, bởi lẽ tất cả những gì tốt đẹp nhất làm được thì Ngài đã làm cho em.
Ngay từ khi em còn trong bụng mẹ, Thiên Chúa đã chuẩn bị em cho một sứ mạng hết sức lớn lao, sứ mạng trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ của Ngôi Lời nhập thể. Em bé ấy tên là Maria. Ngày bé gái Maria chào đời, Thiên Chúa chan chứa mừng vui và hy vọng. Maria vừa là quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân loại, vừa là đại diện của nhân loại để đón nhận ơn cứu độ từ trời cao. Thiên Chúa cần một người mẹ xứng đáng cho Con Một của mình. Ngài muốn Con của mình được sinh ra từ cung lòng của một phụ nữ, để Người Con chí thánh ấy thực sự là người trọn vẹn. Maria được chọn để làm người mẹ ấy, dù chẳng có công chi. Vì thế ngay từ giây phút đầu tiên, khi thai nhi Maria còn trong bụng mẹ, Thiên Chúa đã ưu ái ban dồi dào ơn thánh, đã bao bọc em trong tình yêu. Em được gìn giữ khỏi những vết nhơ của tội nguyên tổ. Nhưng những ơn siêu phàm của Thiên Chúa không bóp chết tự do, không cưỡng ép Maria phải chấp nhận một định mệnh có sẵn, dù Thiên Chúa đã dành cho Maria một chỗ trong chương trình cứu độ.
Bé gái Maria đã lớn lên, đã thành một thiếu nữ, đã đính hôn với Giuse. Maria đã đi con đường tự nhiên của các thiếu nữ Do Thái. Ơn Chúa tuy không làm cho Maria mang bề ngoài khác hẳn mọi người, nhưng vẫn âm thầm hoạt động mãnh liệt nơi tâm hồn. Maria đã mềm mại để Thiên Chúa thì thầm với mình về dự định của Ngài. Dự định ấy có thể làm đảo lộn những gì Maria ước mơ. Khác với bà Evà, Maria tự nguyện buông đời mình để Chúa sử dụng. Cả tình yêu và hôn nhân với Giuse, bây giờ cũng mang ý nghĩa mới. Maria tin tưởng để Thiên Chúa dắt mình đi vào những lối chưa tường. (Mana). Cuộc đời của Mẹ như một bài ca bất tận: "Phần con đây,con tin cậy vào tình thương Chúa,được Ngài cứu độ, lòng con sẽ vui mừng.Con sẽ hát bài ca dâng Chúa,vì phúc lộc Ngài ban" (Tv 12). Mẹ được Thiên Chúa yêu thương với muôn vàn ân lộc: "Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả …" (Lc 1,49).
Hôm nay mừng sinh nhật Đức Mẹ là dịp để mỗi người con cảm ơn người mẹ sinh thành của mình.
Cám ơn mẹ đã cưu mang và sinh hạ ra con.
Cám ơn mẹ đã nuôi dưỡng và bảo bọc che chở cuộc đời con.
Cảm ơn mẹ đã cho con sự cân bằng trong cuộc sống.
Cảm ơn mẹ đã dạy con tình thương mẫu tử là bất diệt.
Cảm ơn mẹ đã dạy con giá trị của sự cần cù.
Cảm ơn mẹ đã dạy con chiêm ngưỡng vẻ đẹp của muôn vật.
Cảm ơn mẹ đã dạy con biết tôn trọng mọi loài.
Cảm ơn mẹ đã cho con biết nuôi dưỡng những cảm xúc.
Cảm ơn mẹ đã dạy con rằng cuộc sống luôn biến chuyển đổi thay.
Cảm ơn mẹ cho con phương thế để trưởng thành.
Cảm ơn mẹ đã dạy con biết nhìn mặt sáng của sự việc.
Cảm ơn mẹ đã dạy con sống mạnh mẽ dịu dàng.
Cảm ơn mẹ đã dạy con biết trắc ẩn cảm thông.
Cảm ơn mẹ đã dạy con giá trị hợp tác trong công việc.
Cảm ơn mẹ đã dạy con biết quý trọng trời nắng và cả cơn mưa.
Cảm ơn mẹ đã dạy con biết ẩn nhẫn mà không chịu khuất phục.
Cảm ơn mẹ đã cho phép con sáng tạo.
Cảm ơn mẹ đã dạy cho con sống trung thực.
Cảm ơn mẹ đã mở mắt cho con trước vũ trụ bao la.
Cảm ơn mẹ đã dạy con biết trân quý những điều đơn giản.
Cảm ơn mẹ đã dạy con tin vào chính mình.
Mẹ là tuyệt tác tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho con. Không có mẹ, con đâu cảm được vị ngọt của tình yêu “như chuối ba hương, như xôi nếp mật, như đường mía lau”. Không có mẹ con đâu có “lớn nổi thành người”.

Không có gì trên đời này cao quý hơn tình yêu của người mẹ.
Không có tình mẫu tử nào cao quý hơn tình yêu của Mẹ Maria. Mẹ Maria chính là bảo ngọc châu báu mà Thiên Chúa trao ban cho nhân loại.

Lạy Mẹ Maria, chúng con cám ơn Mẹ.
Xin Mẹ che chở, gìn giữ hồn xác chúng con trong tình thương của Mẹ.
Xin cho chúng con được nép mình trong vòng tay từ ái của Mẹ. Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Read more…

Ơn gọi của Tara Clemens, một luật sư trẻ, trở thành nữ tu dòng kín Đaminh

18:05 | Thứ Ba, 27 tháng 6, 2017

Ơn gọi của Tara Clemens, một luật sư trẻ, trở thành nữ tu dòng kín Đaminh Trong một thế giới mà ơn gọi tu trì ngày càng giảm sút, đời sống tu trì, đối với nhiều người, có vẻ buồn chán, khác người, cực khổ, đi ngược với mong ước sống tự do, hưởng thụ của thế giới hiện đại, thì vẫn luôn có những ơn gọi thật đẹp, là dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, là bằng chứng của sự tin yêu, đáp lại tiếng Chúa mời gọi, và cũng là chứng tá của những tấm lòng quảng đại, hy sinh, dưới mọi hình thức, để vun trồng ơn gọi tu trì.
Ơn gọi của Tara Clemens, hiện nay là sơ Maria Đaminh Nhập thể, cũng là một ơn gọi “khác người” nhưng thật đẹp; từ một luật sư trẻ, Clemens đã nghe theo tiếng Chúa gọi, tận hiến cho Ngài trong đời tu, và đặc biệt hơn nữa, cô đã chọn đời sống đan tu, chuyên lo việc chiêm niệm cầu nguyện.
Tara Clemens là một luật sư ở thành phố Anchorage, bang Alaska, Hoa kỳ. Clemens nguyên là một tín hữu Tin Lành, và chỉ vài tháng trước khi tốt nghiệp trường luật, cô đã gia nhập Giáo Hội Công Giáo.
Việc trở thành tín hữu Công Giáo xảy ra khá là bất ngờ với Clemens. Chỉ vài tháng trước khi tốt nghiệp đại học luật Lewis và Clark ở thành phố Portland, bang Oregon, Clemens đi cùng một người bạn, tham dự Thánh Lễ thứ sáu Mùa Chay, và ngày hôm đó. là môt bước ngoặt trong cuộc đời của cô: Clemens đã quyết định trở lại Công giáo.
Ba tháng sau đó, dù phải làm việc toàn thời gian, mỗi chiều tối, Clemens theo học về Công Giáo. Một ít tháng sau, vào dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống năm 2007, Clemens hoàn toàn tin vào chân lý của Công Giáo. Clemens đã được gia nhập Giáo Hội Công Giáo vào dịp lễ Vọng Phục sinh năm 2008. Và vài tháng sau đó, dù chưa bao giờ có ý nghĩ sẽ trở thành nữ tu, cô luật sư trẻ Clemens đã đến thăm đan viện Thánh Thể. Clemens đã sống hai năm rưỡi tại đan viện, trước tiên là thỉnh sinh, và sau đó vào nhà tập. Ngày 28 tháng 5 vừa qua (năm 2017), Clemens được tuyên khấn lần đầu tại đan viện Thánh Thể của các nữ tu Đaminh ở Menlo Park, bang California, Hoa kỳ, với tên dòng là Maria Đaminh Nhập thể.
Ngày sơ Maria Đaminh được đội chiếc lúp đen trên đầu thay cho chiếc lúp trắng khi vào nhà Tập cách đây hơn một năm, vị linh mục chủ tế đã nói: “Hãy nhận lấy tấm lúp thánh này, qua đó con có thể được nhận ra như ngôi nhà cầu nguyện dành cho Chúa và đền thờ cầu nguyện cho mọi người”. Sơ Maria Đaminh ý thức được rằng trung tâm của đời sống chiêm niệm của các nữ đan sĩ Đaminh là tình yêu Chúa. Dù là một đan sĩ sống giam mình trong đan viện, không bao giờ đi ra ngoài, sơ vẫn có thể ôm trọn thế giới với tình yêu và cầu nguyện cho thế giới.
Được hỏi về việc trở thành một đan sĩ, sơ Maria Đaminh xác định: “Khi Thiên Chúa gọi chúng ta, Ngài rất kiên định”. Điều này được chứng thực trong hành trình ơn gọi của sơ Maria Đaminh.
Khi luật sư Clemens có ý định đi tu, nhưng vì số tiền hơn 100 ngàn đô la cô mượn để đi học quá lớn, và cô chưa thể thanh toán để vào nhà dòng, cô hầu như thất vọng trước khó khăn thách đố này. Chính khi đó, hội Laboure đã giúp cho Clemens giải quyết vấn đề nợ sinh viên để có thể đi tu. Laboure là một hội có trụ sở ở Minnesota, giúp đỡ cho những người có ơn gọi tu trì trả nợ, điều cản trở họ gia nhập đời tu. Hội Laboure mở một lớp khoảng từ 10 đến 25 người, những người tin là mình có ơn gọi, và tổ chức chiến dịch quyên góp giúp họ. Clemens tham dự chương trình này 2 năm.
Vào cuối khóa, cô tưởng rằng phải đợi thêm một năm nữa vì không nhận được đủ tiền quyên góp để trả nợ học. Nhưng rồi đã có hai vị ân nhân đóng góp số tiền lớn và Clemens đã được giúp trả nợ tiền học.
Như John Flanagan, giám đốc điều hành hội Laboure đã nói: “Tara Clemens đã không thực hiện hành trình ơn gọi một mình, nhưng nhiều người khắp nơi biết là họ đã làm điều gì đó để giúp Tara Clemens trở thành nữ tu Maria Đaminh”. Và ông nhận xét rằng: “Cô ta đã gập phải những khó khăn trên hành trình theo đuổi ơn gôi, nhưng cô đã đón nhận chúng với niềm tin tưởng lớn lao vào Thiên Chúa” (CNS 13/06/2017).
Hồng Thủy
Read more…
Trang 1 / 2512345...25»