Những Điều Cần Biết Về Mùa Vọng

17:57 | Thứ Bảy, 26 tháng 11, 2016
Mùa Vọng là thời gian đợi trông, khi chúng ta sửa soạn ngày Nước Chúa trị đến bằng việc đọc kinh cầu nguyện và bằng những việc làm mang lại công lý và hoà bình cho toàn thế giới.
1/ Mùa Vọng là gì?
Mùa vọng là mùa mong chờ Chúa đến, gồm 4 tuần lễ trước lễ Giáng Sinh và để kính nhớ việc Chúa đi vào lịch sử khi giáng sinh ở Belem. Từ thế kỷ thứ 10, Chúa nhật đầu tiên của mùa vọng bắt đầu cho năm Phụng Vụ. Advent từ tiếng latin Adventus (đến, sắp đến) thông thường dùng để chỉ việc Chúa đến lần thứ hai.
Người Kitô hữu tin rằng mùa Vọng nhắc nhớ sự chờ đợi Đấng Cứu Thế sinh ra của Người Do Thái khi xưa cũng như sự chờ đợi ngày Chúa trở lại trong vinh quang của người Kitô hữu hôm nay. Những bài đọc và những lời nguyện trong mùa Vọng giúp chúng ta luôn hy vọng cho công lý và hòa bình được hiện diện dài lâu, và hy vọng thế giới này sẽ không còn chiến tranh, đói khát, thương đau. Mùa Vọng là thời gian đợi trông, khi chúng ta sửa soạn ngày Nước Chúa trị đến bằng việc đọc kinh cầu nguyện và bằng những việc làm mang lại công lý và hoà bình cho toàn thế giới.*
2/ Những ngày lễ trọng buộc trong mùa Vọng?
Ngày 08 tháng 12, Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Đây là một ngày lễ trọng buộc.
3/ Có những hạn chế trong việc cử hành Thánh lễ cho đám cưới, đám tang trong Mùa Vọng không?
Nếu một đám cưới được tổ chức vào một ngày Chúa nhật hay lễ Trọng trong Mùa Vọng, thì các bài đọc và lời cầu nguyện của phụng vụ trong mùa Vọng được ưu tiên, mặc dù một trong những bài đọc từ nghi thức hôn phối có thể được sử dụng. Nghi Thức Thánh Lễ An Táng không được cử hành vào các ngày Chúa Nhật Mùa Vọng và ngày 08 tháng 12, Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tuy nhiên, nghi thức an táng không có Thánh Lễ có thể được cử hành vào những ngày trên.*
4/ Vòng hoa 4 cây nến, tượng trưng cho điều gì?
Bốn cây nến tượng trưng cho tuần trước lễ Chúa Giáng sinh, mỗi tuần đốt thêm một cây. Ba cây màu tím tượng trưng cho sám hối và một cây màu hồng dùng cho Chúa nhật thứ 3, nói lên niềm vui như Thánh Phaolô kêu gọi: Hãy vui lên… vì Chúa đang đến!
Vòng hoa mùa vọng với cành lá xanh tượng trưng cho sự sống muôn đời. Hạt giống, trái hồ đào dùng để trang trí trên vòng hoa tượng trưng cho sự sống lại và những hoa trái tiêu biểu cho lương thực dồi dào của đời sống Kitô hữu.
Nến tượng trưng cho ánh sáng Chúa Kitô. Đầu tiên tại miền Bắc nước Đức, vòng hoa kiểu này được các gia đình đạo Tin lành trưng bày, sau đó vòng hoa mùa vọng được treo trong nhà thờ Công giáo vào năm 1925 tại tỉnh Köln. Từ năm 1935 các vòng hoa mùa vọng trong gia đình cũng được làm phép. Phong tục này ngày nay đã lan truyền đến nhiều nơi trên thế giới.
5/Linh mục có thể sử dụng lễ phục màu xanh trong mùa Vọng không?
Không, lễ phục màu xanh không được phép. Màu phụng vụ Mùa Vọng là tím. Lễ phục màu hồng được dành riêng cho Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng, Chúa Nhật Mừng Vui (có thể dùng áo màu tím).*
6/ Tinh thần mùa Vọng là gì?
Là đáp lại lời kêu gọi của thánh Gioan Tiền hô: Hãy dọn đường đón Chúa: Quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy, nơi cao phải bạt xuống.**
8/ Mỗi giáo dân tham gia mùa Vọng nên làm gì?
– Nên làm “hang đá tâm hồn” cho Chúa Hài Đồng theo tinh thần của lễ của 3 nhà đạo sĩ mang tới dâng Chúa: vàng (mến Chúa yêu người), nhũ hương (cầu nguyện), mộc dược (hi sinh hãm mình). .
– Tham gia tĩnh tâm, xưng tội do giáo xứ, cộng đoàn tổ chức. .
– Không nên quá chú trọng vào các gói quà (gift), thiệp mừng, các sản phẩm thương mại, máng cỏ lập lòe đèn điện, các cuộc vui trần tục mà quên đi TÌNH THƯƠNG BAO LA của Ngôi Hai giáng trần chuộc tội muôn dân.**
9/ Mùa Vọng mới xuất hiện hay sao?
Sánh với Mùa Chay và Mùa Phục sinh thì quả thực là Mùa Vọng còn mới mẻ. Trước hết nên nhắc lại rằng trong ba thế kỷ đầu, lịch phụng vụ chỉ mừng lễ Chúa Phục sinh. Lễ Chúa Giáng sinh xuất hiện chậm hơn, vào giữa thế kỷ IV. Và dần dần, giống như lễ Phục sinh được chuẩn bị với một Mùa 40 ngày và kéo dài thêm 50 ngày, thì lễ Chúa Giáng sinh cũng có một thời gian chuẩn bị và một thời gian kéo dài. Không phải hết mọi nơi đều có một thời kỳ chuẩn bị lễ Giáng sinh. Cụ thể là ngày nay, các Giáo hội Đông phương không biết đến mùa Vọng. Như thế là mùa Vọng thuộc về truyền thống La-tinh chứ không phải của toàn thể Giáo hội phổ quát (đây là một điều khác với chu kỳ Phục sinh).
10/ Ba thái độ sống cụ thể trong mùa Vọng
Theo tinh thần mùa Vọng, sống hướng về ngày Chúa đến có thể được diễn tả trong ba thái độ cụ thể.
Trước tiên là tương đối hoá hiện tại. Mọi giá trị ở đời này như của cải, danh vọng, tình yêu, gia đình, khoa học, kỹ thuật, văn hoá… là những điều tốt lành mà chúng ta phải ra sức thực hiện theo thánh ý của Chúa trong hoàn cảnh sống cụ thể của mình, nhưng đó chưa phải là những cái tuyệt đối đáng cho ta coi là mục đích phải gắn bó và đeo đuổi với bất cứ giá nào. Trái lại, chúng chỉ tìm được trọn vẹn giá trị khi đối chiếu với cùng đích tối hậu, đích thực của đời ta.
Thái độ sống này làm cho ta nên khôn ngoan, sáng suốt, chừng mực và tự do. Sống hướng về ngày Chúa đến còn đòi hỏi nơi ta một thái độ thứ hai là phải cương quyết chống lại tội lỗi và sự ác nơi mình và chung quanh mình, nơi gia đình và trong xã hội. Đó là dọn đường cho Chúa ngự đến, như chúng ta thường hát trong Mùa Vọng theo lời Kinh Thánh: “Quanh co uốn cho ngay, Gồ ghề san cho phẳng, Hố sâu lấp cho đầy, Nơi cao phải bạt xuống”.
Sau hết, sống hướng về ngày Chúa đến buộc ta phải tỉnh thức và luôn luôn sẵn sàng như người tôi trung: hết lòng với nhiệm vụ được trao phó, tận dụng mọi khả năng của mình để hoàn thành mọi việc theo ý chủ nhà hiện đang vắng mặt và mau mắn mở cửa đón chủ về bất cứ lúc nào.***
Mùa Vọng về ta chờ đón Chúa
Làm hang đá sạch sẽ thơm tho
Ấm áp không phải hơi bò
Nhưng là tình mến, hy sinh, nguyện cầu.
Read more…

Tử Đạo Thời Hiện Đại

06:58 | Thứ Năm, 24 tháng 11, 2016
… ngày lễ kính Các Thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta được mời gọi suy gẫm và nhìn lại quyết định chọn lựa của mình mỗi ngày. Chúng ta đang chọn theo Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài hay chọn theo ai ? Chúng ta đang theo Chúa, nhưng chúng ta có đi vào con đường của Chúa hay đi đường khác ?…
Lịch sử Giáo Hội Việt Nam cho thấy: Càng vào những thời điểm khó khăn, người Kitô hữu càng có lòng tin mạnh mẽ. Trái lại, khi cuộc sống dễ dãi, dường như đời sống đức tin lại suy giảm. Cụ thể vào những thời kỳ bách hại, số người tin vào Chúa Giêsu gia tăng nhanh chóng và lòng đạo đức của người tín hữu cũng sốt sắng hơn. 
Sau năm 1975, khi chính quyền lúc đó gây ra muôn vàn khó khăn, cấm cách, giới hạn các sinh hoạt tôn giáo, người ta có thể thấy các nhà thờ đông kín người tham dự thánh lễ ngày thường. Đến nay, khi nhà thờ được xây to hơn, đẹp hơn, các tổ chức hội đoàn dễ hơn, thuận lợi hơn, thì dường như những người tham dự càng ngày càng ít dần.
Ngày xưa, tổ tiên cha ông chúng ta đã phải đổ máu để tuyên xưng đức tin và bảo vệ đức tin ; ngày nay, chúng ta không phải đổ máu, nhưng chúng ta sẽ phải tuyên xưng và bảo vệ đức tin, kể cả việc tử đạo bằng những cách thức hiện đại hơn.
Mừng lễ các vị Tử Đạo tại Việt Nam, chúng ta có quyền tự hào và hãnh diện vì các bậc cha ông của chúng ta. Hàng vạn lớp người đã anh dũng hy sinh mạng sống vì đức tin theo gương Vị Tử đạo tiên khởi là Đức Giêsu. Bài đọc một thuật lại tấm gương trung thành với lề luật Môsê của những người Do Thái vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Sống dưới ách đô hộ của người Hy Lạp, dân Israel bị bắt buộc phải tuân theo các tập tục, văn hóa của người Hy Lạp. Họ bị ép buộc cúng bái các thần linh của dân ngoại, ăn uống các đồ cúng và buộc phải tham dự các việc cúng bái đó. Trong Israel đã không ít người dễ dàng buông xuôi và tiếp nhận lối sống của người Hy Lạp, nghịch lại với lề luật của Thiên Chúa. Tuy nhiên, vẫn có nhiều người một mực trung thành với lề luật của cha ông, khước từ lối sống dân ngoại và sẵn sàng thà chết chứ không phản bội lại truyền thống của tổ tiên.
Câu chuyện sách Macabê thuật lại sự can đảm của một bà mẹ và bảy người con cùng bị bắt. Họ bị buộc phải ăn thịt heo và tham dự lễ cúng tế, nhưng họ đã một mực từ chối. Điều đáng khâm phục là người mẹ đã can đảm chứng kiến cả bảy đứa con bị hành hình một cách ghê sợ. Bà vẫn chịu đựng và còn dùng đức tin để khuyến khích những người con. Lời lẽ của bà thể hiện một niềm tin vững chắc vào Thiên Chúa, Đấng làm chủ sự sống và sự chết, Đấng có quyền ban cho con người sự sống sau cái chết : Mẹ không rõ các con thành hình trong lòng mẹ ra sao. Không phải mẹ ban cho các con thần khí và sự sống. Chính Đấng Tạo Hóa đã nắn đúc nên loài người, đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót sẽ trả lại cho chúng con thần khí và sự sống. Đó là lời khuyên của bà dành cho các con, giúp cả bảy người can đảm chịu cực hình, đó cũng là giáo lý bà dạy các con, là lời tuyên xưng đức tin của bà vào Thiên Chúa quyền năng.
Tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa và chọn bước theo Tin Mừng và giới răn lề luật của Ngài, đòi chúng ta phải chấp nhận, đánh đổi giữa cái hiện tại để lấy cái tương lai, giữa vật chất và thế giới hữu hạn để lấy sự sống vĩnh cửu vô biên. Bước theo Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài, không phải chỉ trong một khoảng thời gian mà là một cuộc chiến đấu liên tục mỗi ngày. Vì thế, trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu nói với mọi người rằng : Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.
Nhìn vào gương sống và sự can trường của cha ông, chúng ta hết lòng cảm phục và tri ân các Ngài. Ngày xưa, những nhà cầm quyền đã vu cáo cho các ngài đủ điều. Về mặt chính trị, họ kết tội các ngài theo đạo của Tây, cộng tác với ngoại bang phản bội tổ quốc. Về mặt xã hội, họ vu khống các ngài gieo rắc lối sống vô đạo vô luân, bất hiếu. Về tôn giáo, họ cho các ngài như những kẻ theo tà đạo, bị nghị kị loại trừ. Thế nhưng, trước mặt các vua quan, các vị tử đạo đã dõng dạc tuyên bố : Chúng tôi không trái lệnh vua, không phản bội tổ quốc, chúng tôi không làm hại ai. Chúng tôi bị bắt, bị xét xử, chỉ vì chúng tôi tin vào danh Chúa Giêsu Kitô mà thôi. Các quan hứa hẹn cho các ngài một cuộc sống giàu sang sung túc, các ngài từ chối mà rằng : Chúng tôi không thể bỏ Vua Trời và nước Thiên đàng vĩnh cửu để tìm kiếm vinh dự ở dưới đất này. Trước khi chịu hành hình, noi gương Chúa Giêsu, các ngài cầu nguyện cho vua quan và lý hình là những kẻ gây đau khổ và hành hạ các ngài.
Lời mời gọi trong bài Tin Mừng hôm nay là lời mời với sự tự do : Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Chúa không ép buộc, nhưng để cho chúng ta hoàn toàn tự do chọn và quyết định : Ai muốn thì theo. Một khi đã theo thì phải vác thập giá của mình hằng ngày. Đó là điều kiện không thể thoái thác, tránh né, đồng thời phải bước theo Chúa, đi trên cùng một con đường với Chúa chứ không thể đi một con đường nào khác. Con đường của Chúa là con đường thập giá, là hy sinh trong sự yêu mến và hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa. Các vị tử đạo đã chọn Đức Giêsu, đã vác thập giá của mình và đã bước theo Đức Giêsu đến cùng, đến chấp nhận cái chết vì tình yêu dành cho Thiên Chúa.
Chắc chắn các vị Tử đạo có thể chọn một cuộc sống thoải mái hơn, cũng có thể tìm kiếm sự giàu sang, chức tước bổng lộc như nhiều người khác, nhưng các ngài đã chọn và chỉ chọn một mình Chúa Giêsu và giáo lý của Ngài. Một khi đã chọn, các ngài không bao giờ hối tiếc, nhưng luôn vui và hạnh phúc vì được biết Chúa Giêsu và trở nên môn đệ của Ngài. Vì thế, dù đối diện với đòn vọt, tù đày, bắt bớ, tra tấn và đủ mọi cực hình, cũng không làm lay chuyển niềm tin và sự chọn lựa của các, ngài đặt nơi Thiên Chúa.
Trong bầu khí của ngày lễ kính Các Thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta được mời gọi suy gẫm và nhìn lại quyết định chọn lựa của mình mỗi ngày. Chúng ta đang chọn theo Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài hay chọn theo ai ? Chúng ta đang theo Chúa, nhưng chúng ta có đi vào con đường của Chúa hay đi đường khác ? Chúng ta đang vác thập giá của mình như Chúa mời gọi, hay chúng ta đang vác một cái gì riêng của ta, của thế gian ?
Đa số chúng ta được lãnh nhận đức tin từ tổ tiên cha ông truyền lại. Nhiều người đã không vất vả để tìm kiếm, không phải trăn trở thao thức về niềm tin, họ coi việc có đức tin như là chuyện đương nhiên, vì thế, họ không trân trọng đức tin của mình. Nhiều người không nhận ra rằng, đức tin là món quà Thiên Chúa trao ban, do đó phải chăm sóc cho đức tin của mình. Nhiều người không chú tâm trau dồi, đào sâu và nuôi dưỡng để làm cho đức tin của mình bén rễ và sinh hoa kết trái trong cuộc đời. Họ để đức tin của mình bị èo uột, bị những cơn gió của khó khăn cuộc sống, những cơn bão của văn minh và những cơn lũ của xã hội làm cho đức tin bị giao động và có khi bật rễ.
Có nhiều người chỉ biết Đức Giêsu và tin vào Chúa một cách hết sức hời hợt. Vì thế, họ biểu lộ ra bên ngoài bằng một cuộc sống như những kẻ vô thần hoặc như những người dễ dãi, tin kiêng vớ vẩn, mê tín mù quáng. Nhiều người chọn Chúa, nhưng đồng thời không dám từ bỏ những thứ thuộc về thế gian, ma quỉ. Họ làm tôi hai chủ, vừa thờ Chúa vừa thờ cúng thế gian, ma quỉ, vừa tin Chúa vừa tin thầy bà bói toán. Nhiều người Công Giáo chỉ nghe nói về Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài, nhưng không gặp được Chúa Giêsu và cũng không thực hành theo Tin Mừng trong cuộc đời của mình, họ sống như những người dân ngoại.
Chúa mời gọi những người tin Chúa phải vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa, nhưng nhiều người tín hữu lại vác những thứ khác, đó là danh vọng, quyền lợi, địa vị, bổng lộc và tiền bạc, khiến không còn có chỗ cho việc vác thập giá cuộc đời mình nữa. Thay vì đi theo Chúa Giêsu, nhiều người đã chọn đi một con đường khác, đó là con đường của ích kỷ kiêu căng, tranh giành hơn thiệt.
Tình trạng sống đạo theo kiểu vô thần vô đạo như thế đang diễn ra nơi rất nhiều người, không phải chỉ có nơi người trẻ hoặc trí thức, mà cả nơi các bậc cha mẹ và những người bình dân. Những người này không đặt Chúa và Tin Mừng của Ngài vào vị trí ưu tiên của cuộc đời, cũng không tìm kiếm Chúa và hạnh phúc Thiên đàng đời sau, mà chỉ lo tìm kiếm những thứ dễ dãi đời này mà thôi.
Mừng lễ các Thánh Tử đạo Việt Nam hôm nay, xin Các Thánh phù giúp chúng ta noi gương các ngài, biết chọn Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài, biết can đảm vác thập giá và bước theo Ngài trong xã hội tiện nghi và hiện đại ngày nay. Amen.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Read more…

GIÁ TRỊ THIÊNG LIÊNG CỦA THÁNH LỄ MISA

19:32 | Thứ Hai, 21 tháng 11, 2016
Hỏi : Xin cha giải thích thắc mắc sau đây:
1-xin lễ với giá tiền cao và có nhiều cha đồng tế thì có lợi ích thế nào so với lễ chỉ có một linh mục làm và người xin chỉ có ít tiền xin lễ ?
2-linh mục có được phép đi làm quảng cáo thương mại cho ai , và có nên xưng “con” với mọi người ở nơi công cộng hay không ?
Trả lời :
  • Về câu hỏi thứ nhất, xin được trả lời như sau:
Như tôi đã có đôi lần viết về vấn đề này , nhưng nay xin được nói lại một lần nữa về lợi ích thiêng liêng của Thánh Lễ Tạ Ơn (Eucharist) hay Lễ Misa ( Missa ).
Thánh lễ này được dâng trên bàn thờ ở khắp mọi nơi trong Giáo Hội ngày nay để diễn lại cách bí tích Bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu với Nhóm Mười Hai Tông Đồ và Hy tế đền tội mà Chúa dâng lên Chúa Cha trên thập giá năm xưa để một lần đền tội thay cho toàn thể nhận loại khỏi phải phạt và chết đời đời vì tội.
Vì thế, Thánh Lễ Tạ Ơn hay Thánh Lễ Misa là đỉnh cao của đời sống Giáo Hội và của toàn thể Dân Chúa đang hiệp thông với Giáo Hội, vì Thánh Lễ là nguồn ban phát ơn Cứu Độ của Chúa Kitô cho chúng ta ngày nay cùng thể thức và mục đích của Hy Tế thập giá mà Chúa Kitô đã dâng lên Chúa Cha trên đồi Calvary xưa kia; đúng như Giáo Hội đã dạy trong Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, là “mỗi lần hy tế thập giá được dâng trên bàn thờ, nhờ đó “Chúa KitôChiên vượt qua của chúng ta chịu hiến tế (1 Cor 5:7) thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện.” (LG số 3)
Nghĩa là qua Thánh Lễ , chúng ta hiệp thông cùng Giáo Hội dâng lời cảm tạ Chúa Cha cùng với Chúa Kitô và được lãnh nhận ơn cứu chuộc của Chúa một lần nữa lại tái diễn và ban phát cho ta ngày nay mỗi khi Thánh Lễ Tạ Ơn được cử hành ở khắp nơi trong Giáo Hội. Vì mục đích cao trọng này của Thánh Lễ nói chung, nên không có sự khác biệt nào giữa Thánh Lễ do một linh mục tầm thường cử hành , hay do Giám mục và cả Đức Thánh Cha cử hành cũng vậy, vì các vị này chỉ là thừa tác viên (ministers) khi dâng Thánh Lễ nhân danh Chúa Kitô ( in persona Christ).Nghĩa là chính Chúa Kitô cử hành Thánh Lễ hay ban phát bất cứ bí tích nào qua tay thừa tác viên con người là Linh mục, Giáo mục hay Đức Thánh Cha.
Vì thế, không hề có sự khác biệt nào về mục đích và ơn ích thiêng liêng của Thánh Lễ do một linh mục cử hành hay do chính Đức Thánh Cha dâng trên bàn thờ như đã nói ở trên. Nói rõ hơn, dù Thánh Lễ chỉ có một linh mục tầm thường cử hành hay có giám mục và nhiều linh mục đồng tế thì cũng không có gì khác biệt về mục đích và ân sủng của Thánh Lễ. Phải nói lại điều này để đừng ai lầm tưởng rằng Thánh Lễ có nhiều linh mục đồng tế thì có giá trị thiêng liêng hơn Thánh Lễ chỉ có một linh mục cử hành.
Liên quan đến vấn đền vấn đề bổng lễ ( mass stipends) tức là số tiền người xin lễ bỏ ra để xin một hay nhiều lễ cầu cho ai, thì cần thiết phải nói lại rằng : tiền xin lễ chỉ có mục đích trả thù lao cho linh mục cử hành, theo qui định của Giáo quyền địa phương và theo giáo luật.Thí dụ ở Mỹ, số tiền này được ấn định là 5 hay 10 đôla tùy mỗi giáo phận. Số tiền này chỉ có mục đích đãi ngộ cho linh mục cử hành Thánh Lễ theo tinh thần lời dạy sau đây của Thánh Phaolô :
“anh em không biết rằng người lo các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ sao?. Cũng vậy, Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng.” ( 1 Cor 9: 13-14)
Nghĩa là linh mục được quyền hưởng bổng lễ của người xin lễ theo qui định của giáo quyền địa phương.
Nhưng nếu giáo dân nghèo túng, không có tiền xin lễ, thì linh mục vẫn được khuyến cáo dâng lễ cho họ ( giáo luật số 945 & 2) nghĩa là không được từ chối dâng lễ chỉ vì người xin không có tiền dâng cúng.
Một điều quan trọng nữa cần nói lại là linh mục không được phép đòi hỏi người xin lễ dâng số tiền cao hơn mức qui định của giáo quyền địa phương. Đòi tiền nhiều mới chịu dâng lễ là phạm tội mại thánh ( simony) cần phải tránh.
Mặt khác, cũng cần phải nói lại ở đây một lần nữa là số tiền người xin lễ dâng cúng dù to hay nhỏ, dù chỉ có 5 đô hay 500 đô do hảo tâm của người xin lễ bỏ ra, thì cũng không hề có ảnh hưởng gì đến việc Chúa ban ơn thánh của Ngài cho ai được hưởng ý lễ. Nghĩa là ơn thánh của Chúa không thể mua được bằng tiền bạc và Thánh Lễ là vô giá (invaluable) vì không thể mua hay đổi trác được bằng bất cứ báu vật nào của con người.Xin nhớ kỹ điều này để đừng ai lầm tưởng rằng hễ bỏ ra nhiều tiền xin lễ, để được rao tên trong nhà thờ , được thắp thêm đèn nến và kéo chuông inh ỏi thì được nhiều ơn ích thiêng liêng hơn là chỉ có 5 đô xin lễ và linh mục âm thầm cử hành không ai biết đến. Số tiền nhiều hay ít chỉ có giá trị đãi ngộ cho một hay nhiều linh mục dâng và đồng tế Thánh Lễ chứ không có giá trị xin ơn thánh của Chúa ban cho người sống hay cho các linh hồn đã ly trần.Xin nhớ kỹ điều này để đừng ai phải áy náy khi không có nhiều tiền bỏ ra xin lễ, và có đông linh mục đồng tế, hay chỉ có ít tiền xin một lễ không ai biết đến.
Nếu người chết mà khi còn sống đã quyết tâm yêu mến Chúa và tuân giữ các giới răn của Chúa thì dù sau khi chết, không được linh mục nào dâng lễ hay đồng tế, và cho dù xác của mình không được phép mang vào trong nhà thờ như đã xảy ra ở một địa phương kía bên nhà, thì cũng không thiệt thòi gì về mặt thiêng liêng. Ngược lại, một người khi còn sống đã xa lìa hay hoàn toàn chối bỏ Chúa bằng chính đời sống của mình cho đến khi chết, thì dù tang lễ, hay lễ giỗ có cả Hồng Y, giám mục và hàng trăm linh mục đồng tế thì cũng vô ích mà thôi.Chắc chắn như vậy.
Tóm lại, ơn thánh Chúa ban cho ai là hoàn toàn do lòng nhân hậu và công bằng của Chúa chứ không hề dính dáng gì đến số tiền lớn nhỏ của người xin lễ. Và một thánh Lễ do một linh mục dâng cũng có giá trị như Thánh Lễ của Giám mục , Hồng Y hay chính Đức Thánh Cha, vì không phải cá nhân và phẩm chất của người cử hành mà là chính Chúa Kitô dâng lại hy tế thập giá và diễn lại Bữa Ăn sau hết của Người qua tay các thừa tác viên con người là linh mục, giám mục hay Đức Thánh Cha, cũng là giám mục trong chức năng ( competence) như mọi linh mục và giám mục khác. Cho nên, không thể nói là tham dự Thánh Lễ của giám mục, hay của Đức Thánh Cha thì được nhiều ơn ích thiêng liêng hơn là tham dự Lễ của một linh mục không tên tuổi. Xin nhớ kỹ điều này mỗi khi đi tham dự Thánh Lễ.
  • Về câu hỏi thứ 2, xin được nói lại một lần nữa là linh mục của Chúa không thể kiêm thêm “nghề thương mại” để đi làm quảng cáo bán hàng cho một cơ sở thương mại nào; như một linh mục kia đã nằm dài trên chiếc ghế đấm bóp để quảng cáo cho công dụng của loại ghế này. Làm như vây là đã hạ giá vai trò và chức năng linh mục của mình, tự đồng hóa mình với những người buôn bán cạnh tranh trên thị trường thương mại, với những thủ đoạn lường gạt, xảo trá để mong bán hàng cho thật nhiều, bất kể hàng hóa của mình tốt hay xấu, có lợi hay làm hại người tiêu thụ.
Với chức năng (competence) là linh mục, thì chỗ đứng và nơi trình diễn của mình phải là bàn thánh (Altar), giảng đài (pulpit), tòa giải tội (confessional) và giường bệnh nhân, chứ không thể là khán đài với micrô cầm tay để kể chuyện tếu, hay hát những bài ca ướt át để giúp vui trong các tiệc cưới hay hội họp công cộng, nhất là đi rao hàng cho người khác trên truyền thanh và truyền hình.
Linh mục của Chúa Kitô không bao giờ được phép làm những việc này của người đời, nếu muốn sống và hành xử đúng cương vị của mình là linh mục.
Một đều đáng nói nữa là linh mục, khi đứng trước công chúng, thì không đươc tự hạ mình (cách giả dối, không xứng hợp) khi xưng “con” với hết mọi người lớn nhỏ.
Mình không được phép xưng “cha” với ai – trừ với mấy trẻ em , nhưng cũng không nên khiêm nhường giả tạo, lễ độ không đúng chỗ khi tự xưng “con” với hết mọi người trước công chúng.
Trong phạm vi riêng tư, như nói chuyện với mấy cụ già đáng tuổi cha mẹ mình thì linh mục có thể xưng “con” với họ theo văn hóa Viêt Nam. Nhưng trước công chúng, với nhiều thành phần nam nữ lớn nhỏ, và thuộc các tôn giáo khác nhau, thì xưng “con” với mọi người là điều không chính đáng với tư cách là linh mục và cũng không phù hợp với lễ phép theo văn hóa Việt Nam. Xưng hô như thế vừa tự hạ giá mình không chính đáng mà còn gây khó nghe cho người khác, trong đó có nhiều người còn nhỏ tuổi hơn mình và không phải là tín hữu công giáo. Tại sao không xử dụng  cách xưng hô bình thường và không có gì là thiếu lịch sự hay lễ độ như xưng “tôi” hay “chúng tôi” với người nghe, mà phải hạ mình cách không thích hợp khi xưng “con” với hết mọi người như vậy ? Đức khiêm nhường (humility) của Kitô giáo không đòi hỏi phải làm như vậy.
Vì ngôn ngữ Việt Nam đặc thù hơn mọi ngôn ngữ khác, nên cách xưng hô cũng cần áp dụng cho đúng nơi đúng chỗ. Nếu người trẻ mà xưng tao gọi mày với người lớn là vô lễ, là thiếu giáo dục , thì linh mục mà xưng “con” với cả những người trẻ tuổi hơn mình thì lại là điều chướng tai, gai mắt xét về mặt văn hóa và theo phép lịch sự thông thường.
Ước mong ai đang vô tình hay hữu ý xưng hô không thích hợp như trên cần sử lại cách xưng hô của mình trước công chúng để không làm phiền cho người nghe nói chung và cho người Công giáo nói riêng.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Read more…

Danh Nghĩa

07:23 | Thứ Bảy, 12 tháng 11, 2016
Hằng ngày rất nhiều lần chúng ta làm Dấu Thánh Giá trước khi làm một việc gì đó: Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đó là cách chúng ta hành động với danh nghĩa của Thiên Chúa Ba Ngôi. Làm bất cứ việc gì, dù lớn hay nhỏ, quan trọng hoặc bình thường, chúng ta đều nhân danh Thiên Chúa – từ khởi sự cho đến hoàn thành.
Thánh Phaolô đã khuyên nhủ chúng ta: “Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha” (Ep 5:20). Mỗi khi nhân danh Thiên Chúa để làm việc gì, chúng ta phải chân thành, không được giả hình, kẻo mà hóa khốn nạn!
Trong cuộc sống, có những người hành động nhân danh điều tốt lành, thiện hảo; nhưng cũng có những người hành động nhân danh điều xấu xa, độc ác. Ngày xưa, nhóm Pharisêu cũng đã từng dám lấy danh nghĩa của luật Mô-sê mà hành động ngang ngược theo ý họ, và họ đã bị Chúa Giêsu có những lời chê trách nặng nề nhất: “Khốn cho các người…!” (Mt 23:13-32).
Ngày xưa, Đức Chúa các đạo binh tuyên phán: “Vì này Ngày Ấy đến, đốt cháy như hoả lò. Mọi kẻ kiêu ngạo và mọi kẻ làm điều gian ác sẽ như rơm rạ. Ngày ấy đến sẽ thiêu rụi chúng không còn chừa lại cho chúng một rễ hay cành nào. Nhưng đối với các ngươi là những kẻ kính sợ Danh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang theo các tia sáng chữa lành bệnh. Các ngươi sẽ đi ra và nhảy chồm lên như bê xổng chuồng” (Ml 3:19-20).
Hai câu ngắn gọn nhưng vẫn chuyển tải nhiều vấn đề, như một bộ phim dài với nhiều vai diễn khác nhau. Đề tài Thiện – Ác vẫn là vấn đề muôn thuở, từ xưa tới nay, và kéo dài đến tận thế. Ai làm điều tốt sẽ được khen thưởng, ai làm điều xấu sẽ bị trừng phạt. Đó là điều tất yếu.
Thiên Chúa là Đấng nhân lành, chúng ta là đoàn dân của Ngài thì cũng phải thực hành những điều tốt lành, không thể làm khác hoặc trái ngược. Mang danh Kitô hữu là mang danh con cái của Thiên Chúa, đó là niềm hạnh phúc vô cùng lớn lao, niềm vui sướng khôn tả, tác giả Thánh Vịnh mời gọi chúng ta thể hiện niềm vui mừng đó một cách cụ thể: “Đàn lên mừng Chúa khúc hạc cầm dìu dặt, nương khúc hạc cầm réo rắt giọng ca. Kèn thổi vang xen tiếng tù và, tung hô mừng Chúa, vị Quân Vương!” (Tv 98:5-6).
Không là con người, nhưng muôn loài khác cũng là thụ tạo của Thiên Chúa, tác giả Thánh Vịnh cũng mời gọi chúng thể hiện niềm vui được hiện hữu trên cõi đời này: “Gầm vang lên, hỡi biển cả cùng muôn hải vật, địa cầu với toàn thể dân cư! Sông lạch ơi, vỗ tay đi nào, đồi núi hỡi, reo mừng trước tôn nhan Chúa. Vì Người ngự đến xét xử trần gian, Người xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo lẽ công bình” (Tv 98:7-9).
Có một dạng nhân danh khác là dạng đại diện. Các ngôn sứ là những người đại diện Thiên Chúa khi truyền lại các huấn lệnh của Ngài cho dân chúng biết. Các sứ thần tòa thánh là những người đại diện đức giáo hoàng trong thời gian họ hoạt động ở một quốc gia nào đó. Đơn giản nhất, con cái có thể đại diện cha mẹ khi tham dự một buổi họp, một bữa tiệc, một buổi lễ, đám tang, đám giỗ, đám cưới,…
Cuộc sống luôn phức tạp, trong khi con người lại quá yếu đuối. Vì thế, những tấm gương tốt lành và sống động luôn cần thiết để làm động lực thúc đẩy. Thánh Phaolô nói: “Chính anh em thừa biết là anh em phải bắt chước chúng tôi thế nào. Khi ở giữa anh em, chúng tôi đã không sống vô kỷ luật. Chúng tôi đã chẳng ăn bám ai, trái lại đêm ngày đã làm lụng khó nhọc vất vả, để khỏi nên gánh nặng cho người nào trong anh em. Không phải là vì chúng tôi không có quyền hưởng sự giúp đỡ, nhưng là để nêu gương cho anh em bắt chước” (2 Tx 3:7-9).
Một cách rõ ràng hơn, Thánh Phaolô đã nhân danh Thiên Chúa khi nói với giáo đoàn: “Thật vậy, khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: ai không chịu làm thì cũng đừng ăn! Thế mà chúng tôi nghe nói: trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giêsu Kitô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân” (2 Tx 3:10-12).
Đời này có liên quan đời sau. Những việc bình thường ở đời này vẫn khả dĩ có giá trị nếu biết kết hợp với Đức Giêsu Kitô. Giữa cuộc sống nhiêu khê, chúng ta luôn phải tỉnh thức khi nhân danh chính mình, như Chúa Giêsu đã từng khuyến cáo: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Mt 24:42 và 44).
Trình thuật Lc 21:5-19 là bài giảng về sự sụp đổ của thành Giêrusalem. Thánh Luca cho biết rằng, nhân có mấy người nói về Đền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giêsu bảo: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào”. Họ hỏi Người: “Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra, có điềm gì báo trước?”.
Đức Giêsu đáp: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng ‘Chính ta đây’ và ‘Thời kỳ đã đến gần’, anh em chớ có theo họ. Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu”. Điều tiên báo của Chúa Giêsu đã ứng nghiệm. Thật vậy, ngày nay chúng ta đã và đang thấy có nhiều tiên tri giả xuất hiện ở chỗ kia hoặc nơi nọ, và cũng có những người nhẹ dạ tin theo những kẻ “mạo danh” của Đức Kitô.
Ma quỷ rất khôn khéo, tinh ranh, thế nên nó cũng có những cách dụ rất tinh vi. Chúng ta không khó nhận biết cách cám dỗ của nó khi nó lôi kéo chúng ta xa cách Đức Kitô, nhưng lại rất khó nhận biết khi nó dụ chúng ta làm những việc tốt chỉ vì tiếng khen. Khi đó, người ta càng ngày càng ảo tưởng và tự mãn, thế là chúng ta sập bẫy của nó. Kiêu ngạo như một que diêm nhỏ, nhưng nó có thể thiêu rụi cả một cánh rừng rộng lớn!
Đức Giêsu nói tiếp: “Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện”. Chúng ta cũng đã thấy có những điều tương tự như vậy, ngay Việt Nam của chúng ta chứ chẳng ở đâu xa.
Và Đức Giêsu cho biết những điều xảy ra trước, giống như “cơn chuyển dạ” của thai phụ trước khi khai hoa nở nhụy: “Trước khi tất cả các sự ấy xảy ra thì người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp anh em cho các hội đường và bỏ tù, điệu anh em đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy. Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy. Vậy anh em hãy ghi lòng tạc dạ điều này, là anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào. Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được. Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình”. Hãy ghi nhớ những điều Chúa Giêsu cho biết và không ngừng suy niệm, đừng nhẹ dạ cả tin mà mắc mưu thâm kế độc của ma quỷ!
Thật vậy, Thánh Phêrô đã cảnh báo: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Ma quỷ như sư tử đói, nó rình mò suốt ngày thâu đêm, 24 giờ trong 7 ngày (24/7), lơ là một chút là “chết” với nó ngay thôi!
Phàm nhân chúng ta là sinh vật cao cấp, nhưng cũng nhiêu khê và yếu đuối lắm. Hãy nhân danh chính mình và cố gắng thực hiện mấy điều này: Lắng Nghe trước khi Trả Lời, Suy Nghĩ trước khi Hành Động, Đồng Cảm trước khi Chê Trách, Tha Thứ trước khi Cầu Nguyện. Và nếu chưa thành công, hãy cố gắng làm thêm điều này: Thử Làm Lại trước khi Bỏ Cuộc.
Hãy tín thác vào Thiên Chúa, bởi vì “chẳng ai trông cậy Chúa, mà lại phải nhục nhằn tủi hổ, chỉ người nào tự dưng phản phúc mới nhục nhằn tủi hổ mà thôi” (Tv 25:3). Và dù có thế nào thì cũng đừng quên thú nhận: “Lạy Chúa, tội con thật nặng nề, vì danh Ngài, xin lượng thứ cho con” (Tv 25:11).
Nước càng sâu thì càng chảy chậm, người càng trí tuệ thì tâm càng tĩnh. Động – tĩnh, nhanh – chậm, đó là lý lẽ của sự tương sinh tương khắc. Cái gì “động” và “nhanh” thì mau qua, cái gì “tĩnh” và “chậm” thì bền lâu. Phàm nhân chẳng có gì mà tự hào, nhưng chúng ta có quyền “tự hào vì Danh Thánh Chúa” (Tv 105:3), và chính nhờ Danh Thánh Ngài mà chúng ta được sống.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết nhân danh Ngài mà làm mọi thứ, vì công ích chứ không vì tư lợi. Xin giúp con sống chậm, sống sâu, và xin đừng bỏ mặc con cuốn theo dòng đời vội vã. Xin Chúa thương xót các linh hồn, đại xá cho họ về hưởng Tôn Nhan Ngài. Xin Chúa nâng đỡ những người chịu hậu quả của lũ lụt miền Trung. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.


TRẦM THIÊN THU
Read more…

Nên thánh là ơn gọi của tất cả mọi kitô hữu

10:17 | Thứ Tư, 2 tháng 11, 2016
Nên thánh là ơn gọi của tất cả mọi kitô hữu. Các Mối Phúc Thật diễn tả gương mặt của Chúa Giêsu và là con đường nên thánh, trong đó có sự hiền dịu diễn tả tình yêu thương của Ngài, làm cho chúng ta giống Ngài và loại bỏ tất cả những gì chia rẽ khiến cho chúng ta chống đối nhau, để tiến bước trên con đường hiệp nhất
ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong thánh lễ cử hành lúc 9 giở 30 sáng mùng 1 tháng 11 lễ các Thánh Nam Nữ tại vận động trường Malmoe bên Thuỵ Điển.
Thư hai mừng 1 tháng 11 là ngày thứ hai ĐTC viếng thăm Thụy Điển. Ngài đã chỉ có một sinh hoạt duy nhất là cử hành thánh lễ cho tín hữu công giáo tại sân vận động Swedbank Malmoe và sau đó từ biệt Thuỵ Điển để trở về Roma.
Lúc 8 giờ rưỡi sáng ĐTC từ giã trung tâm đại  học giải phẫu tim mạch Igeloesa để đi xe tới sân vận động Swedbank, cách đó 3 cây số, dâng thánh lễ kính các Thánh cho tín hữu công giáo. Sân túc cầu này đã được xây năm 2007 và khánh thành năm 2009, thay thế cho sân vận động Malmoe, trụ sở lịch sử của đội banh của thành phố này có từ năm 1958. Sân vận động có chỗ cho 18.000 người. ĐTC đã được tín hữu nồng nhiệt tiếp đón. Ngài hôn các em bé và người tàn tật giữa tiếng hô và vỗ tay của giới trẻ “Papa Francesco”.
Khán đài nơi cử hành thánh lễ mầu trắng, được trang hoàng với các chậu hoa mầu trắng và mầu vàng. Cùng đồng tế thánh lễ với ĐTC có khoảng 15 Hồng Y, Giám Mục và hơn ba trăm Linh Mục,trong đó có mấy Linh Mục Việt Nam. Thánh lễ trọng kính các Thánh Nam Nữ được cử hành bằng tiếng Latinh và tiếng Thụy Điển. Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Tây Ban Nha, Thụy Điển, Ả Rập, Anh, Đức và Ba Lan.
Giảng trong thánh lễ ĐTC khẳng định rằng nên thánh là ơn gọi của tất cả mọi kitô hữu. Các Mối Phúc Thật diễn tả gương mặt của Chúa Giêsu và là con đường nên thánh, trong đó có sự hiền dịu diễn tả tình yêu thương của Ngài, làm cho chúng ta giống Ngài và loại bỏ tất cả những gì chia rẽ khiến cho chúng ta chống đối nhau, để tiến bước trên con đường hiệp nhất.
Khi mừng kính các Thánh chúng ta không chỉ tưởng nhớ các vị đã được tôn phong hiển thánh trong dòng lịch sử, nhưng cũng tưởng niệm biết bao anh chị em đã sống cuộc đời kitô trong đức tin tràn đầy và tình yêu qua cuộc sống đơn sơ và kín ẩn. Chắc chắn trong số đó có nhiều người thân, bạn bè quen thuộc của chúng ta. ĐTC nói:
Như thế ngày hôm nay chúng ta cử hành lễ của sự thánh thiện. Sự thánh thiện mà đôi khi không lộ hiện trong các công trình to lớn hay các thành công ngoại thường, nhưng biết sống một cách trung thành mỗi ngày các đòi hỏi của bí tích Rửa Tội. Một sự thánh thiện được làm bằng tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Tình yêu trung tín cho tới chỗ quên chính mình để tận hiến hoàn toàn cho các người khác, như cuộc sống của các bà mẹ, các người cha hy sinh cho gia đình, bằng cách biết sẵn sàng từ bỏ biết bao nhiêu điều, và biết bao dự tính hay các chương trình riêng, mặc dù đó không luôn luôn là điều dễ dàng.
Nhưng nếu có điều gì đó định tính các thánh, thì đó là các vị thực sự là những người có phúc. Các ngài đã khám phá ra bí mật của niềm hạnh phúc đích thật, ở sâu trong tâm hồn và bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa. Vì thế các thánh được gọi là các người có phúc. Các Mối Phúc Thật là con đường, là đích điểm là quê hương của các ngài. Các Mối Phúc Thật là con đường cuộc sống mà Chúa chỉ cho chúng ta, để chúng ta có thể theo vết chân Ngài. Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta đã lắng nghe Chúa Giêsu công bố chúng như thế nào trước một đám đông trên một ngọn núi gần hồ Galilea.
Tiếp tục bài giảng ĐTC nói: Các Mối Phúc Thật là gương mặt của Chúa Kitô và vì thế là gương mặt của kitô hữu. Trong các Phúc Thật ấy tôi muốn minh nhiên “Phúc cho những kẻ hiền dịu”. Chính Chúa Giêsu nói Ngài là người hiền dịu: “Các con hãy học cùng Thầy, là người hiền dịu và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Đó là nét tinh thần của Ngài và nó vén mở cho chúng ta thấy tình yêu phong phú của Ngài. ĐTC giải thích sự hiền dịu như sau:
Sự hiền dịu là một kiểu hiện hữu và sống đưa chúng ta tới gần Chúa Giêsu và hiệp nhất giữa chúng ta với nhau; nó làm cho chúng ta từ bỏ tất cả những gì chia rẽ, làm cho chúng ta đối nghịch nhau, và khiến cho chúng ta luôn luôn tìm các phương thế mới để tiến triển trên con đường hiệp nhất, như các người con nam nữ của vùng đất này đã làm, trong đó có thánh nữ Maria Elidabétta Hasselblad, mới được phong thánh, và thánh nữ Brigida, Brigitta Vadstena, đồng Bổn Mạng Âu châu. Các ngài đã cầu nguyện và làm việc để thắt các mối dây hiệp nhất và hiệp thông giữa các kitô hữu. Có một dấu chỉ rất hùng hồn đó là chính tại đây, trong quê hương của các ngài được định tính bởi sự chung sống của các dân tộc rất khác nhau, chúng ta đang cùng nhau tưởng niệm 500 năm Cải Cách. Các Thánh có được các thay đổi nhờ sự hiền dịu của con tim. Với sự hiền dịu chúng ta hiểu  sự cao cả của Thiên Chúa và chúng ta thờ lậy Ngài với lòng chân thành. Ngoài ra đó cũng là thái độ của người không có gì để mất, bởi vì sự giầu có duy nhất của họ là Thiên Chúa.
ĐTC nói thêm trong bài giảng: Các Mối Phúc Thật trong một kiểu nào đó là thẻ căn cước của kitô hữu, nhận diện họ như là người theo Chúa Giêsu. Chúng ta được mời gọi là những người có phúc, môn đệ của Chúa Giêsu, bằng cách đương đầu với các khổ đau và âu lo trong thời đại chúng ta với tinh thần và tình yêu của Chúa Giêsu. Trong nghĩa đó chúng ta sẽ có thể chỉ cho thấy nhiều tình trạng mới giúp sống chúng với tinh thần canh tân và luôn luôn thời sự: phúc cho những người chịu đựng với lòng tin những sự dữ mà người khác gây ra cho họ và sẵn sàng tha thứ; phúc cho những người nhìn vào mắt những ngưòi bị loại bỏ và gạt ra bên lề, bằng cách cho họ thấy sự gần gũi; phúc cho những ai nhận ra Thiên Chúa nơi từng người  và chiến đấu để cho người khác cũng nhận ra như vậy; phúc cho những ai che chở và săn sóc căn nhà chung; phúc cho những ai từ bỏ sự giầu sang của mình vì thiện ích của người khác; phúc cho những ai cầu nguyện và làm việc cho sự hiệp thông tràn đầy của các kitô hữu. Tất cả những người đó là những người mang lòng thương xót và sự hiền dịu của Thiên Chúa, và chắc chắn họ sẽ nhận được từ Ngài phần thưởng xứng đáng.
Anh chị em thân mến, ơn gọi nên thánh là cho tất cả mọi người  và cần nhận lãnh nó từ Chúa với tinh thần đức tin. Các Thánh khích lệ chúng ta với cuộc sống và lời bầu cử của các vị bên Thiên Chúa, và chúng ta cần nhau để trở nên thánh. Chúng ta hãy cùng nhau xin ơn biết tiếp nhận lời mời gọi này với niềm vui và hiệp nhất làm việc để đưa nó tới chỗ thành toàn. Chúng ta hãy phó thác cho Mẹ Thiên Quốc, Nữ Vương các Thánh, các ý chỉ của chúng ta và cuộc đối thoại để tìm ra sự hiệp nhất trọn vẹn giữa tất cả mọi kitô hữu, để chúng ta được chúc phúc trong các nỗ lực của chúng ta và đạt tới sự thánh thiện trong hiệp nhất.
Vào cuối thánh lễ trước khi đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành cho tín hữu ĐTC đã cám ơn ĐC Anders Arborelius GM Stockholm, vị chủ tịch và tổng thư ký Liên hiệp Luther thế giới và ĐTGM của Giáo Hội Thụy Điển cũng như ngoại giao đoàn và tất cả những ai hiệp ý trong buổi cử hành Thánh Thể này. Ngài đặc biệt cám tạ Thiên Chúa đã cho ngài có thể đến thăm vùng đất này và gặp gỡ mọi người, có người đến từ nhiều nơi trên thế giới. Như là tín hữu công giáo chúng ta là thành phần của một đại gia đình, được nâng đỡ bởi cùng một sự hiệp thông. Tôi khích lệ anh chị em sống đức tin của anh chị em trong lời cầu nguyện, trong các Bí Tích và việc quảng đại phục vụ những người đau khổ và cần được giúp đỡ. Tôi cũng khích lệ anh chị em là muối và ánh sáng trong các tình trạng sống của anh chị em, với kiểu hiện hữu và hành động theo kiểu của Chúa Giêsu và với sự kính trọng lớn lao đối với tất cả những người thiện chí. Trong cuộc sống chúng ta không cô đơn, nhưng luôn luôn có sự trợ giúp và đồng hành của Đức Trinh Nữ Maria, mà hôm nay được giới thiệu với chúng ta như vị đầu tiên giữa các Thánh, môn đệ đầu tiên của Chúa. Chúng ta phó thác cho sự che chở của Mẹ và chúng ta dâng lên Mẹ các vui buồn, âu lo và khát vọng của chúng ta. Chúng ta tất cả hãy đặt mình dưới sự chở che của Mẹ, với sự chắc chắn rằng Mẹ nhìn chúng ta và lo lắng cho chúng ta với tình hiền mẫu. ĐTC xin mọi người đừng quên cầu nguyện cho ngài. Tiếp đến ngài đọc Kinh Truyền Tin rồi ban phép lành cho mọi người.
Sau khi từ gĩa tín hữu lúc 11 giờ 45 ĐTC đã đi xe tới phi trường Malmoe cách đó 29 cây số, để đáp máy bay trở về Roma.
Bà Alice Bah-Kuhnke, bộ trưởng Văn hóa và Dân chủ đã tiếp đón ĐTC tại phòng khách của phi trường. Tiếp đến hai vị đã đi bộ tới nơi diễn ra buổi lễ tạm biệt và hai phái đoàn chào nhau.
Máy bay chở ĐTC đã cất cánh lúc 12 giờ 45 và bay qua không phận của các nước Thụy Điển, Đức, Áo và Italia. ĐTC  đã về tới phi trường Ciampino sau 2 giờ 45 phút bay kết thúc chuyến viếng thăm Thụy Điển hai ngày và cũng là chuyến công du thứ 17 của ĐTC ngoài Italia.
Linh Tiến Khải
Nguồn: VietVatican
Read more…
Trang 1 / 2512345...25»