Thiên Chúa Nhẫn Nại

19:33 | Chủ Nhật, 30 tháng 10, 2016

Không ai nhẫn nại bằng Thiên Chúa. Thời gian là lúc Ngài nhẫn nại chờ đợi các tội nhân chúng ta biết ăn năn sám hối. Thiên Chúa kêu gọi ăn năn, chúng ta sám hối và xin lỗi Ngài, nhưng rồi chúng ta lại tái phạm, …
Issac Newton đặt vấn đề: “Nếu tôi có được khám phá giá trị nào, đó là nhờ chú ‎y’ nhẫn nại hơn là bất kỳ tài năng nào tôi có”. Cato có cách so sánh cực cấp: “Nhẫn nại là đức tính lớn nhất trong mọi đức tính”. Nhẫn nại là kiên nhẫn, kiên trì, không bỏ cuộc, không quá nóng lòng chờ kết quả, bình tĩnh chờ thời cơ, nhẫn nhục chịu đựng khó khăn. Nhẫn nại cũng có nghĩa là nhịn nhục. Nhẫn nại là một nhân đức, là thứ “cỏ quý” luôn cần đem bên mình như “thần hộ mệnh” vậy.
Không ai nhẫn nại bằng Thiên Chúa. Thời gian là lúc Ngài nhẫn nại chờ đợi các tội nhân chúng ta biết ăn năn sám hối. Thiên Chúa kêu gọi ăn năn, chúng ta sám hối và xin lỗi Ngài, nhưng rồi chúng ta lại tái phạm, chúng ta lại ăn năn và Ngài lại tha thứ. Đối với phàm nhân chúng ta, chỉ “quá tam ba bận” là nhẫn nại lắm rồi, nói chi “70 lần 7” (Mt 18:22). Vâng, chắc chắn không ai nhẫn nại bằng Thiên Chúa. Vì thế mà ai cũng phải nhẫn nại với nhau, nhẫn nại tha thứ lẫn nhau. Đó là ơn gọi của mọi người, đặc biệt là đối với các Kitô hữu, và trong Mùa Chay này.
Trình thuật Xh 3:1-8a. 13-15 cho biết về ơn gọi và sứ vụ của ông Môsê.
Bấy giờ ông Môsê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô, tư tế Ma-đi-an. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khô-rếp. Ông Môsê nhìn thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. Ông tiến đến xem cảnh tượng kỳ lạ này. Từ giữa bụi cây, Thiên Chúa gọi ông và ông thưa: “Dạ, tôi đây”. Ngài phán: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh”. Ngài lại phán: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp”. Nơi nào có Thiên Chúa, nơi đó là Thánh Địa. Ông Môsê đến Thánh Địa nhưng che mặt đi vì ông sợ – sợ nhìn phải Thiên Chúa.
Tại sao lại sợ nhìn thấy Thiên Chúa? Có lẽ vì đôi mắt phàm nhân không thể chịu nổi ánh sáng phát ra từ nơi Ngài. Đèn cao áp mà mắt thường nhìn còn thấy chói huống chi nhìn ánh mặt trời, mà ánh mặt trời cũng chỉ là ánh sáng của thụ tạo, không là gì so với ánh sáng phát ra từ Thiên Chúa. Vả lại, ông Môsê biết mình là phàm nhân bất xứng với Ngài. Thật đúng vậy. Và chúng ta cũng thế thôi.
Thiên Chúa chí thánh, nhưng Ngài yêu thương các sinh linh do Ngài tác tạo nên Ngài muốn ở với chúng ta, muốn cứu chúng ta, và muốn chúng ta được đồng hưởng vinh quang với Ngài. Các ngôn sứ là những người được Ngài tuyển chọn để “nối kết” với Ngài.
Một trong những người đại diện đó là ông Môsê. Thiên Chúa đã giao sứ mạng cho ông. Ngài nói với ông: “Ta đã THẤY RÕ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã NGHE tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta BIẾT các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống GIẢI THOÁT chúng khỏi tay người Ai-cập, và ĐƯA chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật”. Ông Môsê là người đảm trách việc hướng dẫn dân chúng tiến về Khu Trù Mật mà Thiên Chúa đã hứa ban cho họ.
Đặc biệt là chính Ngài đã mặc khải Thánh Danh của Ngài: Thiên Chúa tự hữu và hằng sinh. Ông Môsê thưa với Ngài: “Bây giờ, con đến gặp con cái Ít-ra-en và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?”. Ngài cho ông Môsê biết rạch ròi: “Ta là Đấng Hiện Hữu”. Rồi Ngài bảo ông Môsê nói với con cái Ít-ra-en thế này: “Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em”. Ngài còn bảo ông Môsê nói thêm điều này với dân Ít-ra-en: “Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia”. Rõ ràng Thiên Chúa căn dặn phàm nhân phải kêu cầu Thánh Danh của Ngài, và Ngài sẽ lo liệu cho phù hợp với mỗi người. Đó là mầu nhiệm về sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.
Vâng, chúng ta không thể nào diễn tả đầy đủ về Thiên Chúa. Phàm ngôn quá ít, trí tuệ quá nhỏ. Chính Ngài đã hào phóng trao ban cho chúng ta mọi sự – từ vật chất đến tinh thần, ngay cả đau khổ cũng là tặng phẩm mà chúng ta không thể nào hiểu nổi. Tất cả đều là mầu nhiệm. Phàm nhân chúng ta chỉ biết cúi đầu chúc tụng và cảm tạ Hồng Ân Thương Xót của Ngài, như tác giả Thánh Vịnh tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:1-4).
Thiên Chúa không thiên vị bất cứ ai, kể cả tội nhân. Nhưng Ngài chú ý đặc biệt đối với những kẻ hèn mọn, thấp cổ bé miệng, bị đồng loại đối xử bất công: “Chúa phân xử công minh, bênh quyền lợi những ai bị áp bức, mặc khải cho Môsê biết đường lối của Người, cho con cái nhà Ít-ra-en thấy những kỳ công Người thực hiện. Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương” (Tv 103:6-8).
Mãi mãi chúng ta không thể hiểu nổi Lòng Thương Xót của Ngài. Nếu chúng ta có quảng diễn theo cách này hoặc cách nọ, đó chỉ là một phần nhỏ có thể giúp nhau hiểu, và để rồi “liệu hồn” mà đối xử với nhau cho hợp tình hợp lý: “Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao” (Tv 103:11).
Từ ngàn xưa, Đức Maria đã hân hoan xưng tụng: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1:50). Một sự thật minh nhiên, thật hơn cả sự thật. Thánh Phaolô dẫn chứng: “Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê. Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô. Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc. Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta” (1 Cr 10:1-6). Tất cả chúng ta đều như nhau, thế nên chúng ta phải nên một trong Đức Kitô Giêsu. Không có cách khác để chúng ta chọn lựa.
Thiên Chúa nhẫn nại vì chúng ta, vậy chúng ta cũng phải nhẫn nại lẫn nhau, nhẫn nại với nhau và vì nhau. Không nhẫn nại là ảo tưởng, mà ảo tưởng thì không thể tồn tại: “Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này. Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10:10-12).
Thực thi lòng thương xót rất đơn giản, không cầu kỳ, không xa lạ như chúng ta tưởng. Chỉ cần chúng ta nhìn nhau bằng ánh mắt thân thiện là thể hiện lòng thương xót rồi. Nói lời ngọt ngào mà giả dối thì ích gì? Làm từ thiện khắp nơi mà không giúp đỡ người trong gia đình, như vậy không là giả hình thì là gì? Nhẫn nại lẫn nhau là một cách sống lòng thương xót. Nhưng… nói thì dễ, mà làm thì khó. Chúng ta phải thực sự nhẫn nại để tập sống nhẫn nại.
Nhẫn nại sám hối, nhẫn nại yêu thương, nhẫn nại chịu đựng,… nếu không thì chết chắc. Thiên Chúa vui tính và dễ tính, thật thà nhưng Ngài cũng rất thẳng thắn, không nói đùa đâu đấy! Trình thuật Lc 13:1-9 cho chúng ta biết về “tình trạng” này.
Một hôm, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giêsu nói ngay: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ CHẾT hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ CHẾT hết y như vậy”. Điều kiện cách “nếu không… sẽ chết” như một điệp khúc được Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại để cảnh báo những ai ảo tưởng, tự nhận mình “ngon” hơn người khác.
Trong đời thường, khi thấy người khác bị tai nạn hoặc tai ương, nếu nạn nhân là người “theo phe” với mình, người ta cho đó là “thánh giá Chúa gởi đến”; nhưng nếu nạn nhân “đối lập” với mình, người ta lại nói đó là “quả báo”, là “Chúa phạt”. Sự việc tương tự nhưng người ta nhìn bằng hai loại “mắt kính”. Cái “ý tưởng” của phàm nhân thật đáng sợ. Thế mà Thiên Chúa vẫn nhẫn nại, và Ngài tiếp tục im lặng.
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn “cây vả không ra trái”. Ngài nói: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: ‘Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?’. Nhưng người làm vườn đáp: ‘Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”. Dụ ngôn ngắn gọn nhưng súc tích, dễ hiểu, cho thấy Thiên Chúa rất yêu thương chúng ta.
Thời gian là sự nhẫn nại của Thiên Chúa. Sự nhẫn nại đó là lòng thương xót của Ngài. Thật vậy, Ngài “không muốn kẻ gian ác PHẢI CHẾT, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và ĐƯỢC SỐNG” (Ed 33:11). Thiên Chúa nhẫn nại với chúng ta, Ngài cũng muốn chúng ta nhẫn nại với nhau: “Phúc thay những kẻ có lòng kiên trì” (Gc 5:11).
Lạy Chúa, xin giúp con biết Chúa và biết con để con tin yêu Ngài và ăn năn tội, nhờ đó mà con biết nhẫn nại với tha nhân. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Read more…

Ơn Gọi Linh Mục Và Tu Sĩ, Những Điều Cần Quan Tâm

10:04 | Thứ Ba, 25 tháng 10, 2016
Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi ơn gọi. Ơn gọi căn bản mà Thiên Chúa ban cho con người là ơn gọi làm con Chúa. Chúa còn ban cho Giáo Hội những ơn gọi linh mục và tu sĩ để theo sát Đức Kitô hơn và phục vụ dân Chúa. Đây là ơn gọi mà trong hoàn cảnh hiện nay có những điều cần quan tâm đến.
Khơi mầm, nuôi dưỡng, phát triển, củng cố ơn gọi linh mục, tu sĩ
Nhìn vào Giáo Hội Việt Nam hôm nay, ai cũng phải nhìn nhận rẳng ơn gọi linh mục, tu sĩ vẫn còn rất phong phú. Nhưng phải nói ngay rằng, sự phong phú này khó có thể kéo dài trong tương lai, khi mà mỗi gia đình chỉ có 1 hoặc 2 con, hoặc khi xã hội bị tục hoá nặng nề… Riêng trong hiện tại, sự phong phú ơn gọi linh mục, tu sĩ chắc chắn không phải tự nhiên mà có, nhưng là kết quả của nhiều yếu tố tích cực như bầu khí gia đình đạo đức, môi trường xã hội tương đối còn lễ giáo.
Ngoài ra, còn có yếu tố khách quan là sự kính trọng mà xã hội dành cho giới linh mục, tu sĩ. Tuy nhiên, khi gia đình mất đi bầu khí đạo đức, hoặc khi lễ giáo của môi trường xã hội bị suy giảm, hay khi linh mục, tu sĩ không còn được xã hội kính trọng, thì còn nảy sinh nhiều ơn gọi hay không? Do đó, ơn gọi linh mục, tu sĩ vẫn cần được quan tâm khơi dậy. Nhưng khơi dậy thế nào?
Ơn gọi linh mục, tu sĩ có thể nảy mầm trong các thanh thiếu niên, nhưng sẽ bị “thui chột” mau chóng, nếu không được nuôi dưỡng, chăm sóc, củng cố. Có nhiều yếu tố gây “thui chột” ơn gọi như : các gương xấu về sự ích kỷ, ngại hy sinh, đua đòi, hưởng thụ, sự vô cảm, những lời dèm pha, dè bỉu việc đi tu, những hình ảnh thiếu đạo đức và những điều nghịch đức tin trong đời thường nơi sách vở, báo chí, phim ảnh, internet… Vì thế, cần phải quan tâm nuôi dưỡng ơn gọi khi vừa chớm nở. Nhưng bằng cách nào ?
Ơn gọi linh mục, tu sĩ được nuôi dưỡng thì mới hy vọng tồn tại, nhưng tồn tại mà không phát triển thì không thể sinh hoa kết trái. Thậm chí, tồn tại mà không phát triển, sẽ đặt người ta vào tình trạng khó xử cho Bề Trên: “bỏ thì thương, vương thì tội !”. Cho tiến tới (chịu chức, khấn dòng…) thì Bề Trên không yên lương tâm. Cho lui (chuyển hướng) thì không đủ yếu tố. Không lẽ cứ cho đứng tại chỗ… Phải làm sao đây?
Ơn gọi linh mục, tu sĩ phát triển là điều đáng mong ước đối với Giáo Hội và với mọi người. Nhưng khi chúng ta tìm cách gia tăng số lượng ơn gọi cần đi đôi với nỗ lực phát triển, củng cố phẩm chất tương xứng. Vậy, phải làm thế nào để để khơi dậy, nuôi dưỡng, phát triển và củng cố ơn gọi linh mục, tu sĩ ?
Các thành phần Dân Chúa góp phần khơi dậy, nuôi dưỡng ơn gọi.
Trước tiên, những người trực tiếp có thể thực hiện là các bậc cha mẹ, các thầy cô giáo, các giáo lý viên và các linh mục, là những người có thể lắng nghe, đối thoại, phân định, đồng hành liên lỉ mỗi ngày với những người được giao cho mình, để giúp họ nhận ra tiếng Chúa mời gọi, ngay trong những điều bình thường mỗi ngày, chứ không phải chỉ trong những biến cố lớn đánh động lương tâm họ.
Các bậc cha mẹ cần tạo bầu khí gia đình đạo đức theo hai chiều, chiều dọc và chiều ngang. Chiều dọc là việc thờ phượng Chúa, thể hiện qua việc gia đình đều đặn tham dự phụng vụ cách sốt sắng, nhất là thánh lễ Chúa Nhật và bí tích giao hoà, kiên tâm học hỏi Lời Chúa, siêng năng đọc kinh gia đình và tích cực sống đạo. Chiều ngang là quan tâm tới nhau, yêu thương nhau, quảng đại hy sinh cho nhau, khích lệ nhau làm việc lành, và biết liên đới với mọi người.
Các thầy cô giáo khi đứng lớp, truyền đạt kiến thức phổ thông cho học sinh, cần nhắm đào tạo những con người thấm nhuần lễ giáo, nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, để làm nên một môi trường xã hội lành mạnh. Việc này phải được bắt đầu từ các giáo viên công giáo, rồi từ các giáo viên công giáo, lan ra các giáo viên khác. Bên cạnh đó, người động viên các thầy cô giáo theo định hướng đạo đức vẫn là các linh mục.
Các giáo lý viên không chỉ lo lắng dạy giáo lý cho các thiếu nhi và thiếu niên, mà còn cần lưu tâm dạy cho họ nhân bản và đạo đức nữa. Hơn nữa, các giáo lý viên khi dạy giáo lý để chuẩn bị cho các thiếu nhi và thiếu niên lãnh nhận các bí tích, cũng không quên khơi dậy ơn gọi nơi các em. Quả thế, các giờ giáo lý, các cuộc gặp gỡ huấn luyện, cầu nguyện phụng vụ, hành hương, là những cơ hội quý báu để giáo lý viên khơi dậy nơi những người trẻ, ý thức mình thuộc về Giáo Hội và trách nhiệm đáp lại ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến[1].  
Các linh mục, chủ chăn các linh hồn phải đích thân tham dự vào việc khơi dậy, nuôi dưỡng, phát triển, củng cố ơn gọi linh mục, tu sĩ, trong mọi nơi, mọi lúc, bằng mọi cách, dưới nhiều hình thức, đặc biệt là gương sáng về một đời phục vụ bình an, hạnh phúc, thanh thoát, cũng như về tình hiệp thông huynh đệ linh mục và về tương quan thuận thảo, trong sáng với các tu sĩ nam nữ. Chính các ngài có thể khơi dậy ơn gọi bằng những gặp gỡ, tiếp xúc, gợi ý hướng thượng cho các thiếu nhi và thiếu niên
Các ngài còn góp phần nuôi dưỡng, bảo vệ ơn gọi linh mục, tu sĩ bằng cách lưu tâm không để cho các em tiếp xúc hoặc bị ảnh hưởng xấu bởi những yếu tố gây “thui chột” ơn gọi. Đồng thời, để phát triển ơn gọi linh mục, tu sĩ, các ngài sẵn sàng cung cấp những điều kiện thuận lợi để phát triển về đạo đức, nhân bản, tri thức, mục vụ, tông đồ cho các người đang trong hành trình ơn gọi. Các ngài cũng không quên thúc đẩy, nhắc nhở các bậc cha mẹ ý thức chu toàn bổn phận của họ đối với con cái. Các ngài góp ý cho các thầy, cô giáo để họ biết quan tâm đào tạo học sinh phát triển toàn diện, đúng đắn. Và các ngài cần tạo điều kiện thuận lợi cho các giáo lý viên thi hành chức năng của họ.
Những phương thế có thể thực hiện để phát triển và củng cố ơn gọi.
Cầu nguyện
Ơn gọi vào sứ vụ linh mục và đời sống thánh hiến là thành quả của lời cầu nguyện tha thiết dâng lên ‘Chủ mùa gặt’, như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta : “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Các con hãy cầu xin Chủ mùa gặt sai nhiều thợ gặt đến trong ruộng của Người” (Mt 9, 36-38). Theo thói quen chúng ta thường tập trung vào ngày quốc tế cầu nguyện cho ơn gọi, nhưng làm như thế là chưa đủ. Trong các giáo xứ, các gia đình, các nhóm lo cho ơn gọi, phải luôn luôn dâng lên Chúa lời cầu nguyện cho có nhiều ơn gọi, như Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI khẳng định :
“Mỗi ơn gọi đặc thù đều nảy sinh từ sáng kiến của Thiên Chúa, là hồng ân tình thương của Chúa ! Chính Chúa đi ‘bước đầu’ chứ không phải vì sự tốt lành riêng nào nơi chúng ta, đúng hơn đó là do sự hiện diện của chính tình thương Chúa được ‘đổ xuống trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Linh’ (Rm 5, 5). Trong mọi thời đại, nơi nguồn mạch ơn gọi của Chúa, đều có sáng kiến tình thương vô biên của Thiên Chúa, Đấng hoàn toàn tỏ mình ra trong Đức Giêsu Kitô….[2]”.
Chắc chắn mọi người đều có bổn phận cầu xin Chúa cho có nhiều ơn gọi linh mục, tu sĩ, như Công đồng Vatican II dạy : “Nghĩa vụ làm gia tăng ơn gọi linh mục là điều thuộc về toàn thể cộng đoàn Kitô. Cộng đoàn có nghĩa vụ chu toàn công tác này nhất là bằng đời sống Kitô hoàn hảo[3]”. Để làm theo lời dạy của Công đồng, cần phải cầu xin Chúa cho mọi người biết quan tâm lo lắng cho ơn gọi, biết lưu ý tới việc khơi mầm, nuôi dưỡng, phát triển, củng cố ơn gọi linh mục và tu sĩ, bằng việc căn bản là làm gương sáng.
Cũng cần cầu xin cho các cha mẹ biết quảng đại dâng con cho Chúa. Cầu cho các gia đình biết hỗ trợ khích lệ những gia đình nào có con đi tu. Cầu cho các thầy cô giáo biết luôn hành động theo lương tâm đúng đắn, khi dạy dỗ học sinh. Và cầu cho các giáo lý viên biết giúp các thiếu nhi và thiếu niên khám phá ra ơn gọi của mình.
Phát triển các trung tâm ơn gọi
Một cách thức rất tốt để cổ võ và tổ chức việc mục vụ ơn gọi là phát triển các trung tâm ơn gọi (hoặc nhà ơn gọi) của giáo phận, của giáo hạt, của hội dòng. Cần quan tâm đầu tư nhân sự cho các trung tâm này. Chọn những người có ‘tâm’ và có ‘tầm’ chuyên hoạt động cho mục vụ này, để chăm lo và vun trồng ơn gọi cách thiết thực và hiệu quả.
Cần có những linh mục hoặc tu sĩ với chương trình, kế hoạch, và phương tiện để “giúp cho các bạn trẻ biết sống tình bạn chân thành với Chúa, tăng trưởng lòng mến Chúa nhờ được vun trồng qua kinh nguyện cá nhân và phụng vụ, qua việc học biết cách chăm chú lắng nghe Lời Chúa một cách hiệu quả, ngày càng làm quen với Kinh Thánh ; cho các bạn trẻ thấy Lời Chúa, cầu nguyện và Thánh Thể là kho tàng quý giá giúp cho hiểu vẻ đẹp của một cuộc sống hoàn toàn dâng hiến cho Nước Thiên Chúa; dần dần giúp các bạn trẻ hiểu rằng việc sống theo thánh ý Chúa không hề hủy hoại và không phá hủy con người, nhưng giúp con người khám phá và theo đuổi sự thật sâu xa nhất về bản thân;
giúp các bạn trẻ biết  sống tinh thần quảng đại và huynh đệ trong quan hệ với tha nhân, vì chỉ ra cho các bạn trẻ  thấy rằng khi con người chúng ta cởi mở đối với tình yêu Thiên Chúa thì tìm được niềm vui đích thực và hoàn toàn làm cho những khát vọng của mình được mãn nguyện[4]”.
Kết luận : Ơn gọi linh mục, tu sĩ là một vấn đề cần phải được quan tâm nhiều hơn, cần phải đầu tư cho nền mục vụ ơn gọi cách thích đáng để khích lệ và nâng đỡ những người tỏ ra muốn đi vào đời sống linh mục và đời sống thánh hiến[5]. Trong hoàn cảnh hiện nay và tương lai muốn được nhiều ơn gọi có phẩm chất, những linh mục và tu sĩ nơi các trung tâm ơn gọi thường xuyên liên kết với các giáo xứ, giáo hạt, giáo phận để cùng với các bậc cha mẹ, các thầy cô giáo, các giáo lý viên và các linh mục quản xứ cổ võ cầu nguyện, khơi dậy ơn gọi, rồi có chương trình dạy dỗ để nuôi dưỡng, củng cố, hướng dẫn các người trẻ ngay từ khi ơn gọi nẩy mầm, đặc biệt chú trọng phát triển về đời sống tâm linh. Điều này sẽ làm nền tảng thuận lợi cho việc đào tạo và sống đời linh mục, tu sĩ sau này.
Nhờ đó, Giáo hội có được những chứng nhân Tin Mừng tích cực góp phần thiết thực cho công cuộc tân phúc âm hóa. Trong Tông huấn Đời sống Thánh hiến ĐTC Gioan Phaolô II viết: “Chính phẩm chất thiêng liêng của đời thánh hiến mới lay chuyển được những con người thời đại này- họ cũng đang khao khát những giá trị tuyệt đối- và trở thành một lời chứng hấp dẫn”[6] 
Lm. Giuse Lê Anh Tuấn
 http://dcvxuanloc.net/
Read more…

Đọc Kinh Mân Côi suốt ngày và tại bất cứ đâu

06:52 | Thứ Hai, 24 tháng 10, 2016
Qua cuộc đời các Thánh chúng ta đã biết sức mạnh và các ơn ích của Kinh Mân Côi đối với cuộc sống của con người trên trái đất này cũng như đối với các linh hồn nơi Luyện Ngục.
Kinh Mân Côi có sức mạnh làm vơi nhẹ các khổ đau của các linh hồn trong lửa Luyện Ngục và mau chóng đưa họ lên Thiên Đàng. Đây là lý do khiến cho nhiều vị Thánh liên lỉ sốt sắng lần hạt Mân Côi.
Chính vì thế chúng ta cũng phải noi gương các ngài liên lỉ lần hạt Mân Côi để sinh ích lợi cho cuộc sống của những ai còn đang lữ hành trên đường trần gian này và cứu giúp các linh hồn đã qua đời, trong đó có các thân nhân, bạn bè và ân nhân của chúng ta. Người ta kể rằng khi về già một ngày kia thánh Giám Mục Alfonso de Liguori rơi vào tình trạng ngủ li bì. Thánh nhân không nói cũng không nghe thấy gì. Các anh em trong dòng vây quanh người và không biết phải làm gì. Nhưng có một thầy dòng bất thình lình được linh hứng, tiến tới gần thánh nhân và nói: “Thưa Đức Cha, chúng con phải lần hạt Mân Côi”. Vừa nghe tới Kinh Mân Côi thánh nhân lập tức giật mình, mở mắt và bắt đầu xướng kinh: “Lạy Chúa Trời xin tới giúp con… ”
Khi nghe nói tới lần hạt Mân Côi, thánh Alfonso luôn luôn sẵn sàng không mệt mỏi. Đặc biệt trong những năm già yếu thánh nhân luôn luôn có Tràng Hạt Mân Côi trong tay từ sáng cho tới chiều tối, không lúc nào rời. Các Thánh là như vậy. Luôn luôn hướng tới tột đỉnh trong sự thiện, và khi đó là việc thực thi các điều tốt lành, các vị không bao giờ đặt giới hạn hay thuyên giảm các cố gắng và các hành động anh hùng. Đặc tính của các Thánh là thế, nhất là đối với một việc lành thánh như cầu nguyện, cách riêng cầu nguyện cho người khác và cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi. Cầu nguyện có nghĩa là dừng lại và sống ở trên Trời như thánh Phaolô căn dặn tín hữu Philiphê: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên Trời” (Pl 3,20). Cầu nguyện là làm những gì các Thánh trên Thiên Đàng đang làm, các vị đối thoại với Thiên Chúa và Mẹ Maria, các vị say sưa trong lời cầu nguyện thờ lậy, chúc tụng và cảm tạ liên lỉ. Như vậy say mê yêu mến cầu nguyện, mau mắn tìm mọi dịp để cầu nguyện, không mệt mỏi trong việc cầu nguyện, là điều tự nhiên và bình thường nhất đối với các Thánh. Thật thế, các Thánh yêu thích lời Chúa dặn: “Các con hãy cầu nguyện không ngừng” (Lc 18,1) và các vị hiểu lời Chúa từng chữ một. Vì thế khẩu hiệu chung của các vị là: cầu nguyện nhiều và cầu nguyện sốt sắng, còn hơn thế nữa cầu nguyện rất nhiều và rất sốt sắng. Và các Thánh cầu nguyện trong mọi nơi, mọi lúc.
Không có ngày nào là các vị không lần hạt Mân Côi. Các vị không đánh mất cho dù chỉ là một chút thời giờ nhàn rỗi, mà không biến nó thành lời cầu nguyện với Kinh Mân Côi. Trái lại, có biết bao nhiêu người không lần hạt Mân Côi, mặc dù có lẽ họ phung phí hàng giờ ngồi trước máy truyền hình, đọc báo hay chơi lô tô, đi lại và nói năng trống rỗng! Có những người nói rằng mình tuyệt đối không có thời giờ để lần hạt Mân Côi. Họ nói không thể nào tìm ra mười lăm phút để lần một chuỗi. Có cần phải tin lời họ nói không? Cả khi muốn tin như vậy đi nữa, chúng ta cũng có thể nói với họ điều mà thánh Vinh Sơn de Paoli và thánh Gioan Bosco đã nói: Hãy tìm cách lần một chuỗi, bằng cách chia ra trong suốt ngày sống, một chục kinh ban sáng khi vừa thức dậy, một chục kinh sau đó nữa, một chục kinh khác trước khi ăn trưa…
Thỉnh thoảng bỏ ra hai phút để đọc mười kinh, thật đâu có nhiều giờ lắm đâu! Nhưng cần phải lần hạt mỗi ngày như dấn thân của tình yêu thường nhật đối với Mẹ Maria, Mẹ Chúa Cứu Thế và là Mẹ chúng ta. Thánh Vinh Sơn de Paoli còn đi tới chỗ khuyên bỏ hết các kinh khác một bên, miễn là không bỏ lần hạt Mân côi. Và thánh Alfonso de Liguori thì sẵn sàng bỏ cả bữa ăn trưa… vì thánh nhân khẳng định rằng đọc Kinh Mân Côi có giá trị hơn bữa ăn trưa rất nhiều. Thật là đẹp khi thấy thánh Maria Bertilla tìm cách lần hạt Mân Côi trong một lúc nghỉ trước khi bắt đầu một công việc khác, học hành, giải trí. Cả thánh Roberto Bellarmino cũng ngừng công việc học hành nghiên cứu của mình để đi dạo và đọc Kinh Mân Côi với cỗ tràng hạt trong tay. Ông Giuseppe Tovini, một người cha gia đình có mười đứa con, mỗi khi phải đi đâu, ngồi trên xe ông đều lần hạt Mân Côi, hết chuỗi này tới chuỗi khác. Cần phải biết tận dụng các lúc nghỉ ngơi hay chờ đợi mà chúng ta có được trong hàng quán, trong phòng đợi của bác sĩ, trong khi chờ xe lửa hay xe buýt tới. Nếu biết tận dụng những thời gian đó, thì mỗi ngày chúng ta đã lần được biết bao nhiêu chuỗi rồi! Chân phước Diego Oddi, là một thầy dòng khiêm hạ có nhiệm vụ đi khất thực cho nhà dòng. Khi đi đường thầy luôn luôn lần hạt Mân Côi. Các hạt chuỗi di động giữa các ngón tay nổi đốt sần sùi của thầy. Thầy luôn chú ý để không mất một chút thời giờ nào mà không lần hạt Mân Côi. Nhất là mỗi khi phải chờ đợi xe buýt, thầy rất hài lòng vì có thể an bình đọc Kinh Mân Côi. Một lần nọ thầy gặp một Linh Mục Trưởng cũng đợi xe buýt như thầy. Thầy mời vị Linh Mục lần hạt chung với thầy. Vị Linh Mục từ chối khéo bằng cách nói rằng xe buýt sắp tới bây giờ, nên bắt đầu lần hạt Mân Côi là vô ích.
Thầy Diego dịu dàng khích lệ cha cứ bắt đầu lần hạt với thầy. Để làm vui lòng thầy cha bắt đầu cùng lần hạt với thầy. Và xe buýt đã chỉ tới khi hai người xong chuỗi Mân Côi và đọc kinh Kính Chào Nữ Vương để kết thúc. Biết bao nhiêu lần cũng xảy ra là chúng ta phải chờ xe buýt tới trễ. Nhưng tại sao lại mất thời giờ chờ đợi mà không lần hạt Câm Côi để cầu nguyện cho những ai cần tới lời cầu nguyện của chúng ta? Chuỗi Mân Côi giúp chúng ta chiến được “các kho tàng trên Trời” (Mt 6,20). Một cách đặc biệt chúng ta hãy nhớ tới gương mẫu ngoại thường mà Thiên Chúa đã ban tặng cho nhân loại trong thế kỷ XX: đó là cha thánh Pio thành Pietrelcina. Tính trung bình mỗi ngày cha Pio lần hơn 100 chuỗi Mân Côi. Thật là điều không thể tin được, nếu chính cha không vén mở cho chúng ta biết điều đó, và nếu hàng trăm tín hữu đã không tận mắt chứng kiến. Họ trông thấy vị linh mục Capucino này liên lỉ lần hạt Mân Côi không biết mỏi mệt, ngày đêm, hết năm này sang năm khác, với tràng chuỗi trong đôi tay mang vết thương rướm máu ấy.
Thật vậy, có thể nói rằng cha Pio lần hạt Mân Côi suốt ngày. Và có vài lần cha đã nói rằng cha muốn ngày kéo dài ra 40 giờ đồng hồ để cha có thể lần hạt nhiều gấp đôi! Thật thế, Đức Mẹ Fatima đã không mời gọi một cách uổng công đối với cha Pio. Và người ta đã thấy rằng cha Pio rất xác tín về các lời khẳng định của chị Lucia, một trong ba trẻ mục đồng đã được trông thấy Đức Mẹ ở Fatima năm 1917. Chị nói: “Kể từ khi Đức Trinh Nữ Rất Thánh đã ban sự hữu hiệu cho Chuỗi Mân Côi Thánh, không có vấn đề vật chất hay tinh thần, quốc gia hay quốc tế nào mà lại không thể giải quyết với Kinh Mân Côi Thánh và với các hy sinh của chúng ta”. Chị còn nói thêm: “Sự suy đồi của thế giới chắc chắn là hậu qủa của sự sa sút tinh thần cầu nguyện. Chính để cho thấy trước sự lạc hướng này mà Đức Mẹ đã tha thiết xin chúng ta lần hạt Mân Côi…
Kinh Mân Côi là khí giới mạnh mẽ nhất mà chúng ta có thể dùng để bảo vệ mình trong cuộc chiến”. Chắc chắn là cha Pio đã không giữ khí giới này trong tình trạng nghỉ ngơi. Trái lại, cha đã sử dụng nó đêm ngày, trong mọi loại chiến đấu chống lại kẻ thù. Khi còn là linh mục trẻ, tại Giovanni Rotondo cha ngủ với các chủng sinh trong một góc nhà ngủ của tiểu chủng viện. Một trong các chủng sinh nghe một tiếng động của các thanh sắt bị uốn cong và các tiếng rên tắc nghẽn của cha Pio đang van nài Đức Mẹ: “Lạy Đức Me, xin cứu giúp con!” Sáng hôm sau chú bé tới giường cha Pio và trông thấy các thanh sắt của bức màn bị bẻ cong.
Vào ban chiều trong giờ chơi các chủng sinh nài nẵng hỏi cha Pio tại sao các thanh sắt treo màn lại bị cong queo như vậy, và tại sao ban đêm cha lại rên siết như thế. Sau cùng cha đồng ý nói cho các chú biết lý do, để dậy các chú sự cần thiết của lời cầu nguyện và sức mạnh của Kinh Mân Côi chống lại kẻ thù là ma qủy. Thế thì chuyện gì đã xảy ra? Một tiểu chủng sinh bị cám dỗ về đức trong sạch đã khẩn nài cha Pio là cha linh hướng của cậu. Cha lập tức lần hạt Mân Côi. Kẻ thù là ma qủy thấy mình bị đánh bại liền trút sự giận dữ lên người cha bằng cách tấn công cha một cách điên loạn. Thế mới biết Kinh Mân Côi quyền năng chừng nào!
Linh Tiến Khải
Read more…

SỐNG CHỨNG NHÂN

19:50 | Thứ Bảy, 22 tháng 10, 2016
 “Tôi tin đạo chứ không tin người có đạo”. Là người Kitô hữu, khi nghe câu nói này ai trong chúng ta lại không cảm thấy xót xa, ngại ngùng và phải đấm ngực ăn năn. Bởi vì, trong đời sống làm con Chúa, đã bao lần chúng ta sống chưa xứng đáng với danh hiệu kitô hữu. Chúng ta vẫn tự hào mình là ngươi Công giáo, nhưng nhiều khi cuộc  sống của chúng ta lại không minh chứng cho niềm tin của mình. Làm sao người ta có nhận ra gương mặt của Chúa Kitô, khi đời sống của người kitô hữu chưa thể hiện được niềm xác tín vào Đức Kitô và chưa diễn tả đúng cốt lõi của Tin Mừng. Thánh Giacôbê khẳng định: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Lời nhận định đó đã, đang và sẽ còn cật vấn mỗi người Kitô hữu, cách riêng cho bản thân chúng ta những người đang sống trong ơn gọi hiến dâng.
1. Thực trạng xã hội và con người hôm nay
 Chúng ta đang sống trong thời đại tục hóa, con người hôm nay bị ảnh hưởng bởi lối sống thực dụng, hưởng thụ. Cuộc sống của con người dường như luôn căng thẳng bởi phải chạy đua với thời gian và công việc. Nhờ sự phát triển của khoa học công nghệ, con người đã đạt được những thành công nhất định; nhưng bên cạnh đó là vô vàn các tệ nạn xã hội. Tỉ lệ giàu- nghèo ngày càng chênh lệnh. Điều đáng quan ngại hơn đó là những người trẻ, họ là tương lai của xã hội và Giáo hội, nhưng lại thiếu trưởng thành trong suy nghĩ và hành động, chưa biết cách làm chủ bản thân. Nhiều người trẻ ngày nay chỉ thích chạy theo thần tượng mà không có một định hướng tương lai cho đời mình.
Trước thực trạng đó, chúng ta phải nói gì, làm gì để đồng hành, hướng dẫn và giúp đỡ con người hôm nay đi đúng hướng. Thậm chí, ngay cả với những người công giáo, “đức tin của người Kitô hữu đang phải đối diện với nhiều vấn đề, do não trạng của con người đã thay đổi, nhất là ngày nay cho rằng sự chính xác hợp lý thuộc về lĩnh vực chinh phục của khoa học và công nghệ ”. Tuy nhiên, Giáo hội vẫn luôn theo dõi, hướng dẫn và đặc biệt “Giáo Hội không bao giờ sợ chứng minh rằng không có bất kỳ xung đột nào giữa đức tin và khoa học chân chính, vì cả hai đều hướng đến chân lý, mặc dù bằng những con đường khác nhau” [1].
Như vậy, muốn sống và làm chứng cho Đức Kitô, trước hết chúng ta phải xác tín niềm tin của mình vào Đức Kitô và phải có tinh thần Nhập Thể và Nhập Thế như Ngài. “Đức Kitô Ngôi Lời Nhập Thể, đã liên kết mình với những điều kiện xã hội và văn hóa của người đương thời với Ngài, nhằm thâm nhập Tin Mừng của Ngài vào dân tộc cách sinh động sâu xa trong nền văn hóa của con người”(AG 8).
2. Vai trò chứng ta của người Kitô hữu.
Đức Phaolô VI đã nói: “Con người hôm nay cần chứng nhân hơn thầy dạy”. Vậy chúng ta có thể làm chứng cho Đức Kitô bằng cách nào?
2.1 Chứng nhân trong lời nói
Không có lời nói nào thuyết phục người nghe bằng lời nói sự thật, nhưng không phải lúc nào nói lên sự thật cũng dễ dàng được mọi người đón nhận. Đức Giêsu là một bằng chứng cụ thể: Ngài đã đến trần gian để sống và làm chứng cho sự thật và Ngài đã dùng chính cả mạng sống mình để làm chứng cho sự thật. Nhưng chỉ những người đứng về phía sự thật mới đón nhận Ngài.
Thực tế, để làm chứng nhân trong lời nói thật không dễ chút nào, bởi người ta thường nói “sự thật mất lòng”, để nói lời vừa tai người nghe, thì chúng ta phải lựa lời hợp với ý họ. Nhưng liệu những lời hợp ý con người, có hợp với ý của Thiên Chúa hay không? Bởi thế, người Kitô hữu muốn trở thành chứng nhân của Thiên Chúa, thì lời nói đó phải thấm nhuần tinh thần của Đức Kitô, nghĩa là lời nói của họ phải đượm tình bác ái yêu thương, chứ “đừng nói lời gian ác điêu ngoa”(1Pr 3,10).
Trong một xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ, chúng ta có đủ khả năng và niềm tin để “sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của chúng ta” hay không?(1Pr 3,15). Thời đại của chúng ta, dường như mọi người không còn muốn nghe lời chân lý mà chỉ muốn nghe những lời nịnh hót và nghe theo dục vọng của mình. Nhưng Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Hãy lên tiếng lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện”(2Tm 4,2). Dẫu biết rằng những lời chân lý sẽ bị khước từ, thậm chí bị coi thường và lên án, nhưng cuối cùng chỉ có lời chân lý mới có sức giải thoát con người. Mahatma Gandi đã từng nói: “Một chân lý mà bị muôn người bác bỏ thì nó vẫn là chân lý”. Hơn nữa, có Thần Khí của Thiên Chúa luôn ở trong chúng ta, nhờ Thần Khí chúng ta sẽ nói ra những điều nhiệm mầu (1Cr 14,2). Vì thế, chúng ta không sợ phải làm chứng cho Đức Kitô, vì không phải một mình chúng ta nói mà chính Thần Khí sẽ cầu thay nguyện giúp và sẽ nói thay chúng ta.
Nhưng làm chứng bằng nói thôi thì chưa đủ sức thuyết phục, người Kitô hữu cần phải làm chứng bằng hành động cụ thể
2.2 Chứng nhân trong cách thực hành sống đạo
Mahatma Gandi, người được coi là một vị thánh của dân tộc Ấn Độ, trong cuốn tự thuật của mình ông đã thú nhận rằng: ông rất thích đọc Kinh Thánh, đặc biệt là bài giảng trên núi…ông thật sự nuôi ý định trở thành một Kitô hữu. Một ngày kia, ông bước vào một nhà thờ công giáo để dự lễ và nghe giảng, người ta đã chặn ông lại và nói với ông, nếu ông muốn dự lễ xin mời ông đến một nhà thờ dành cho người da đen. Ông đã ra đi và không bao giờ trở lại.
Câu chuyện trên đây cho thấy, người kitô hữu đã không thực hành đúng với Tin Mừng của Chúa. Bởi ơn cứu độ của Đức Kitô được ban cho tất cả mọi người, không phân biệt màu da chủng tộc, không phân biệt giai cấp, giàu nghèo…Nếu như người kitô hữu thực hiện đúng lệnh truyền của Đức Kitô: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ ”(Mt 28,19), thì đã không có nhiều người như M.Gandi phải ra đi trong thất vọng.
Thật vậy, có lẽ xưa nay nhiều người trong chúng ta vẫn còn coi trọng lý thuyết hơn thực hành, nếu một đời sống chỉ toàn lý thuyết mà thôi thì chẳng khác gì một người sống trên mây trên gió; hay như “người ngu dại xây nhà trên cát”(Mt 7,26). Trong cách thực hành sống đạo của người Kitô hữu phải thể hiện được cốt lõi của Tin Mừng. Điều cốt lõi ấy được Đức Giêsu tóm gọn trong cụm từ “mến Chúa yêu người”.
“Mến Chúa” là làm đẹp lòng Chúa bằng cách sống đúng những điều Chúa dạy “kính mến Chúa trên hết mọi sự”, vậy mà không ít người Kitô hữu lại tin vào bói toán tử vi, coi trọng tiền bạc, địa vị hơn Chúa. Người Kitô hữu nhiều khi chỉ có danh mà không có thực. Bởi cách sống đạo của chúng ta nhiều khi chỉ là hình thức bên ngoài. Người tín hữu Việt Nam vẫn giữ được thói quen đi lễ đọc kinh, cầu nguyện nhiều, nhưng xét về mức độ thực hành thì chưa khả quan lắm. Nhiều khi chúng ta chỉ giữ đạo trong nhà thờ, còn ra ngoài thì nói xấu, chia rẽ, gièm pha nhau đủ điều. Chúng ta vẫn tự hào đạo Công giáo là đạo của sự thật, thế nhưng chúng ta vẫn ăn gian nói dối, lừa lọc nhau chỉ vì một mối lợi thấp hèn. Ngày nay, không ít người Kitô hữu chỉ vì muốn tiến thân trong công việc, muốn có địa vị xã hội mà không dám xưng mình là người Công giáo trong sơ yếu lý lịch hay trong đơn xin việc làm, ngại ngùng khi làm dấu thánh giá công khai trước mặt bạn bè. Nếu người Kitô hữu chưa sống đúng, chưa xác tín vào niềm tin của mình thì làm sao có thể giới thiệu Chúa cho người khác được.
Đức Giêsu đã dạy chúng ta phải “yêu người thân cận như chính mình”, phải thể hiện bằng lối sống bác ái với tha nhân. Đạo của chúng vẫn được gọi là đạo của những người yêu thương nhau. Khi chúng ta thực hiện tình yêu thương với mọi người, thì họ sẽ nhận ra Thiên Chúa của chúng ta là ai. Câu chuyện sau đây là một bằng chứng cụ thể:
Bà Lê Thị Ngọc Lan quê ở Phan Thiết. Bà bị nhiễm HIV do người chồng quá cố đã truyền sang. Hai đứa con khi biết mẹ bị nhiễm HIV thì bỏ mặc không một lần thăm viếng. Đau khổ về cả thể xác lẫn tinh thần, chút tiền dành dụm được cũng không cánh mà bay. Mấy ngày không ăn không uống, bà Lan đói quá phải bò sang nhà hàng xóm xin giúp đỡ. Hai chi em My và Thủy thấy bà Lan gõ cửa nhà mình, đã đưa bà vào nhà thăm hỏi, cho bà ăn uống, cho gạo và một ít tiền rồi đưa bà về nhà. Tối đến hai cô còn đến thăm hỏi, khi biết hoàn cảnh của bà Lan, hai cô đã báo cho hội Legio của Giáo xứ Thánh Mẫu đến thăm. Nhờ sự quan tâm yêu thương của mọi người. Bà Lan đã xin mọi người dạy cho mình biết cầu nguyện và học đạo. Bà nói “nếu những người đang yêu thương tôi là con của Chúa thì tôi cũng muốn được trở nên con Chúa”. Sau đó ít lâu bà được rửa tội và bà đã khuyên được người chị ruột của mình theo đạo [2].
Dân gian Việt Nam có câu “lời nói lung lay gương bày lôi kéo”. Thật vậy, không có gì dễ lôi cuốn sự chú ý của người khác bằng đời sống đạo hạnh, bác ái của chúng ta. Đức tin “hành động qua đức ái ” (Gl 5,6) Để giới thiệu khuôn mặt Đức Kitô cho mọi người, thì chúng ta phải thực thi điều Chúa dạy “yêu người thân cận như chính mình”, người thân cận ấy có khi là người ăn xin ở vệ đường, người bị xã hội miệt thị hay người bà con lối xóm với chúng ta, thậm chí cả kẻ thù hằn chúng ta nữa…
Đúng như lời của Đức phaolô VI đã nói: Con người hôm nay tin vào cuộc sống và hành động hơn là lý thuyết. Họ có thể tin vào lời rao giảng của chúng ta, khi chúng ta đã sống và thể hiện điều chúng ta đã rao giảng.
2.3 Chứng Nhân của Người Tu Sĩ
Thánh Giacôbê nhấn mạnh “đức tin không có việc làm là đức tin chết”(Gc 2,17).
Người tu sĩ phải là một chứng nhân sống động cho Đức Kitô qua việc sống và tuân giữa các lời khuyên Phúc Âm. Chúng ta được mời gọi để theo sát Đức Kitô, hiến thân phụng sự Chúa và mưu ích phần rỗi cho các linh hồn. Qua ba lời khấn, người tu sĩ đã dâng cho Thiên Chúa những quyền căn bản của con người như: quyền yêu và được yêu, quyền tự do định đoạt, quyền làm chủ bản thân. Nếu sống trọn những yêu sách này, thì đời sống của người tu sĩ sẽ phản chiếu Nước Trời mai hậu.
 Hơn nữa, trong sứ vụ phục vụ các linh hồn, người tu sĩ có trách nhiệm đồng hành, hướng dẫn mọi người đến đời sống hoàn thiện và trở nên con cái Chúa. Trong sứ vụ huấn luyện, giảng dạy các trẻ em, thanh thiếu niên… chúng ta phải là người hướng dẫn các em đến với Thiên Chúa qua đời sống yêu thương, dấn thân phục vụ. Trong trách nhiệm hướng dẫn các tâm hồn, chúng ta phải có ơn Chúa, phải là một con người thấm nhuần tinh thần Tin Mừng. Muốn thế, chúng ta phải là con người biết cầu nguyện, có đời sống gắn bó thân mật với Chúa. Hơn nữa, trong năm đức tin này Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta phải “làm tăng trưởng đức tin với cảm nghiệm về tình yêu đã lãnh nhận và biết thông truyền đức tin với cảm nghiệm về ân sủng và niềm vui”[3]. Có như thế, chúng ta mới có thể thông truyền đức tin và chia sẻ niềm vui của Chúa Phục sinh cho người khác.
TẠM KẾT
Nếu con người thời nay cần chứng nhân, thì người kitô hữu phải là những chứng nhân: “đem yêu thương vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm” (Kinh hòa bình).
Quả vậy, qua lối sống, suy nghĩ, cách hành động của con người thời nay, gương sống của người Kitô hữu sẽ là dấu chứng để truyền đạt nội dung Tin Mừng một cách sinh động và có hiệu quả nhất. Các thánh tử đạo ngày xưa phải đổ máu đào để minh chứng niềm tin và để gieo hạt giống Tin Mừng khắp thế giới. Ngày nay, tuy không phải đổ máu, nhưng qua việc sống trung thành với niềm tin, trung thành với lời khấn, với việc bổn phận trong gia đình, trong xã hội, người Kitô hữu sẽ là một nhân chứng cho Đức Kitô và dấu chỉ cho niềm hy vọng của con người hôm nay. Muốn làm được tất cả những điều trên, mỗi người chúng ta phải luôn liên kết với Thiên Chúa Ba Ngôi qua đời sống gắn bó với Ngài, phải luôn cầu nguyện với niềm tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa và để cho Thiên Chúa soi sáng, hướng dẫn trong mọi suy nghĩ và hành động của chúng ta.
Sr. Maria  Xuân Hương  
Nguồn: Daminhtamhiep
——————
[1] x. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, Porta Fidei, số 12 
[2] Trích Báo Công Giáo và Dân Tộc, số 1801.
[3] x. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, Porta Fidei, số 7 
Read more…

Khiêm nhượng, hiền từ, và cao thượng

19:29 | Thứ Bảy, 22 tháng 10, 2016
Khiêm nhượng, hiền từ và cao thượng, là ba thái độ mấu chốt để xây dựng hiệp nhất trong Giáo hội, và các Kitô hữu phải bỏ đi tính ghen tương, đố kỵ và xung đột. Đây là lời của Đức Giáo hoàng Phanxicô trong bài giảng thánh lễ ban sáng ngày thứ sáu 21-10 tại Nguyện đường Nhà trọ Thánh Marta.
OSSROM84880_Articolo
Lấy ý từ lời chúc “Bình an ở cùng anh chị em,” Đức Giáo hoàng tập trung bài giảng vào những điều cần có để vun đắp bình an và hiệp nhất, tránh chiến tranh và xung đột.
“Lời chúc lành của Chúa tạo nên một mối dây bình an và hiệp nhất chúng ta. Và không có bình an, không có hiệp nhất, nếu như chúng ta không thể hỏi thăm nhau, chào đón nhau. Điều này cũng đúng với sự hiệp nhất trong thế giới, trong thành phố, hay trong gia đình.
Ác thần luôn luôn gieo chiến tranh. Ghen tương, đố kỵ, xung đột, đàm tiếu ... Là những thứ hủy hoại bình an, và do đó không thể có hiệp nhất. Và một Kitô hữu phải làm sao để thúc đẩy bình an, để tìm sự hiệp nhất?  Thánh Phaolô đã nói rõ với chúng ta rồi: “Hãy sống cho xứng đáng, với trọn lòng khiêm nhượng, hiền từ và cao thượng .”  Không có khiêm nhượng, ta không thể gieo bình an.  Nơi nào có kiêu căng, nơi đó luôn có chiến tranh và mong muốn đánh bại người khác vì tin rằng mình cao hơn họ.
Ngày nay chúng ta đã mất đi khả năng nói chuyện dịu dàng, thay vào đó cứ hét vào mặt nhau hay nói xấu về nhau.  Chúng ta phải tái khám phá sự dịu dàng. Và khi làm thế, ta có thể hòa hợp với người khác, nâng đỡ lẫn nhau, nhẫn nại và chịu đựng lỗi phạm của nhau và những chuyện mà mình không thích.
Chúng ta cần ba điều này, khiêm nhượng, hiền từ và cao thượng, để chúng ta có một trái tim lớn, một trái tim mở ra có thể chưa tất cả mọi người, không lên án ai, không thu nhỏ lại vì những chuyện vụn vặt.
Và như thế tạo nên mối dây bình an. Đây là cách hành xử xứng đáng. Thần Khí là Đấng tạo nên sự hiệp nhất, nhưng ba thái độ này giúp chuẩn bị và tăng cường sự hiệp nhất.
Mầu nhiệm Giáo hội là mầu nhiệm của Thân thể Chúa Kitô. Một đức tin, một phép rửa, một Thiên Chúa là Cha, Đấng làm việc qua mọi sự và trong mọi sự. Đây là sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha ban cho, và chúng ta phải giúp gây dựng sự hiệp nhất này trong mối dây bình an.  Và mối dây bình an, lớn lên nhờ khiêm nhượng, hiền từ và cao thượng .”
J.B. Thái Hòa chuyển dịch từ Vatican Radio
Read more…

Tương quan với Thiên Chúa đi ngang qua việc cho kẻ đói ăn cho kẻ khát uống

18:20 | Thứ Năm, 20 tháng 10, 2016
Trên thế giới ngày này có biết bao nhiêu người đói khát, không có thực phẩm và nước uống. Trợ giúp họ là một bổn phận luân lý, vì nó diễn tả các quyền nền tảng đại đồng của con người. Tương quan của chúng ta vói Thiên Chúa đi ngang qua việc cho kẻ đói ăn cho kẻ khát uống.
ĐTC đã nói như trên với hơn 60.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến sáng thứ tư 19-10-2016.
Trong bài huấn ĐTC đã bắt đầu khai triển các việc thương xót đối với thân xác, trước hết là “cho kẻ đói ăn cho kẻ khát uống”. ĐTC nói:: Một trong các hậu quả của  cái gọi là “thoải mái” là việc dẫn đưa con người tới chỗ khép kín trong chính mình, thờ ơ với các đòi hỏi của tha nhân. Người ta làm mọi cách để lừa dối chúng bằng cách giới thiệu các mô thức sống phù du, biến mất sau vài năm, làm như thể cuộc sống của chúng ta là một mốt thởi thượng cần chạy theo và thay đổi theo mùa. Không phải thế. Cần tiếp nhận thực tại như nó là, và thường khi nó khiến chúng ta gặp các tình trạng cần cấp bách trợ giúp. Chính vì thế mà trong các công việc của lòng thương xót có  nhắc tới sự đói khát: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống. Ngày này có nhiều người đói khát lắm.
Biết bao lần các phương tiện truyền thông cho chúng ta biết tin tức liên quan tới các dân tộc khổ đau vì thiếu thực phẩm và nước uống, với các hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt đối với các trẻ em.
Trước vài tin tức và đặc biệt là trước vài hình ảnh, dư luận công cộng cảm động và thỉnh thoảng phát động các chiến dịch trợ giúp để kích thích tình liên đới. Các đóng góp quảng đại và nhờ đó có thể góp phần thoa dịu phần nào nỗi khổ đau của biết bao người. Hình thức bác ái này quan trọng, nhưng nó không liên lụy một cách trực tiếp. Trái lại, khi ra ngoài đường chúng ta gặp một người cần sự trợ giúp, hay khi có một người nghèo đến gõ cửa nhà chúng ta, thì rất khác, bởi vì tôi không đứng trước một hình ảnh, mà chính tôi bị liên lụy. Không còn có khoảng cách nào giữa tôi và người đàn ông hay người đàn bà đó nữa, nhưng tôi cảm thấy mình bị gọi hỏi. Sự nghèo khó trừu tượng không gọi hỏi chúng ta, nhưng khiến cho chúng ta suy tư, làm cho chúng ta than van; nhưng khi bạn trông thấy sự nghèo túng trên thịt xác một người nam, một người nữ, một trẻ em, điều này gọi hỏi bạn! Và vì thế cái thói quen mà chúng ta có là chạy trốn trước nguời nghèo, không tới gần họ, hay tô son đánh phấn một chút thực tại của các người nghèo với các thói quen của mốt thởi thượng biến mất. Bởi khi làm như thế là chúng ta xa rời thực tại đó. Trái lại, ở đây không còn có khoảng cách nào nữa giữa tôi và người nghèo khi tôi gặp họ.
Trong các trường hợp này, tôi phản ứng ra sao? Quay mặt nhìn đi nơi khác hay bỏ qua? Hay tôi dừng lại nói chuyện và lo lắng cho tình trạng của người ấy? Và nếu bạn làm điều này, thì sẽ không thiếu ai đó nói: “Ông này điên, nói chuyện với một người nghèo!”
Tôi có xem mình có thể tiếp đón người ấy một cách nào đó, hay tìm cách tự giải thoát một cách mau chóng nhất hay không? Nhưng có lẽ người ấy chỉ xin điều cần thiết thôi: một cái gì đó để ăn hay để uống. Chúng ta hãy suy nghĩ một chút: có biết bao lần chúng ta đọc Kinh Lậy Cha, nhưng không thực sự chú ý tới các lời: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Trong Thánh Kinh, có một thánh vịnh nói rằng Thiên Chúa là Đấng “ban lương thực cho mọi sinh vật” (Tv 136,25). Kinh nghiệm đói rất gay go. Ai đã sống trong thời chiến tranh hay đói kém thì biết nó. Tuy nhiên, kinh nghiệm này lập lại mỗi ngày bên cạnh sự trù phú và phung phí thực phẩm. Các lời của tông đồ Giacôbê vẫn còn luôn luôn thời sự: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2,14-17): họ không có khả năng làm  các công việc, sống bác ái, sống tình yêu.
ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Luôn luôn có ai đó đói khát và cần đền tôi. Tôi không thể nhường trách nhiệm cho ai khác. Người nghèo này cần đến tôi, cần sự giúp đỡ của tôi, cần lời nói của tôi, cần sự dấn thân của tôi. Chúng ta tất cả đều bị liên lụy trong điềy này. Đó cũng là giáo huấn của trang Tin Mừng, trong đó Chúa Giêsu khi trông thấy biết bao dân chúng  theo ngài từ nhiều giờ, nên xin các môn đệ: “Chúng ta có thể mua bánh ở đâu để họ có thể ăn?” (Ga 6,5). Và các môn đệ trả lời: “Không thể được, tốt hơn nên cho họ đi…”. Trái lại Chúa Giêsu nói với các ông: “Không. Các con hãy cho họ ăn đi” (Mc 14,16). Ngài khiến họ đưa cho Ngài ít chiếc bánh và cá họ có, chúc lành, bẻ ra và đưa cho các ông phân phát cho mọi người. Và ĐTC nói:
Đây là một bài học rất quan trọng cho chúng ta. Nó nói với chúng ta rằng sự ít ỏi mà chúng ta có, nếu chúng ta giao phó trong tay của Chúa Giêsu và chia sẻ nó với lòng tin, thì nó trở thành một sự giầu có tràn đầy.
Trong Thông điệp “Bác ái trong Chân lý” ĐTC Biển Đức XVI khẳng đinh rằng: “Cho kẻ đói ăn là một lệnh truyền luân lý đối với Giáo Hội, … Quyền có thực phẩm, cũng như có nước uống có một vai trò quan trọng đối với việc đạt các quyền khác… Vì thế cần chín mùi một ý thức liên đới duy trì thực phẩm và có nước uống như các quyền đại đồng của tất cả mọi người, không phân biệt, cũng không  kỳ thị” (s. 27). Chúng ta đừng quên các lời của Chúa Giêsu: “Thầy là bánh sự sống” (Ga 6,35), và “Ai khát hãy đến cùng Thầy” (Ga 7,37). Chúng là một khiêu khích đối với tất cả chúng ta là tín hữu, các lời này, một khiêu khích thừa nhận rằng tương quan của chúng ta với Thiên Chúa đi ngang qua việc cho kẻ đói ăn cho kẻ khát uống, một Thiên Chúa đã mạc khải nơi Đức Giêsu gương mặt thương xót của Ngài.
Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.
ĐTC đã chào nhiều phái đoàn khác nhau.
Trong số các phái đoàn đến từ các nước  Pháp, Thụy Sĩ và Bỉ, ĐTC đã đặc biệt chào các linh mục giáo phận Orléans do ĐC Jacques Blaquart hướng dẫn. Ngài cũng chào các phái đoàn đến từ Anh quốc, Êcốt, Ailen, Dan Mạch,  Phần Lan, Hoà Lan, Malta, Ghana,  Uganda, Nam Phi, Indonesia, Philippines, Nhật Bản,  Trung quốc, Singapore và Hoa Kỳ.
Trong các nhóm nói tiếng Đức ĐTC chào đặc biệt ca đoàn nhà thờ chính toà giáo phận Mainz, đông đảo bạn trẻ, các trẻ em giúp lễ và học sinh trường trung học Damme. Trong số các nhóm nói tiếng Bồ Đào Nha ngài chào tín hữu các giáo xứ Mogi Guaçu và Pereiras. ĐTC cầu chúc cuộc hành hương Roma trong Năm Thánh giúp họ sống ý thức Giáo Hội đại đồng và hăng say làm chứng tá cho lòng thương xót Chúa.
Chào các đoàn hành hương Ba Lan ĐTC nhắc tới lễ nhớ chân phước linh mục Popieluszko, tuyên uý Công đoàn Độc lập Liên Đới đã bị mật vụ Ba Lan bắt cóc và giết chết. Ngài là người đã đứng mũi chịu sào bệnh vực các công nhân và gia đình họ, bằng cách yêu cầu công lý, các điều kiện sống xứng đáng, tự do dân sự và tôn giáo cho họ. Khẩu hiểu mục vụ của ngài là lời thánh Phaolô nói với tín hữu Roma: “Đừng để cho sự dữ chiến thắng, nhưng hãy chiến thắng sự dữ với sự thiện” (Rm 12,21). ĐTC nói: Ước chi các lời này hôm nay đối với anh chị em và tất cả mọi gia đình và toàn dân Ba Lan là một thách đố giúp xây dựng trật tự xã hội công bằng trong việc kiếm tìm sự thiện phúc âm trong cuộc sống thường ngày.
Trong số các nhóm Hoà Lan ĐTC đặc biệt chào các chủng sinh tổng giáo phận Utrecht và các giáo phận Rotterdem và Breda, cũng như đại diện Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô Hoà Lan.
Trong số các đoàn hành hương Italia ngài chào tín hữu giáo phận Caltagirone do ĐC Calogeri Peri hướng dẫn về hành hương Roma nhân kỷ niệm 200 thành lập giáo phận; các trẻ em chịu phép Thêm Sức giáo phận Faenza-Modighiana, các tham sự viên khoá hội học do Đại học Thánh Giá tổ chức; giới trẻ Công giáo tiến hành giáo phận Brindisi-Ostuni;  các nữ tu Thánh Gioan Tẩy Giả về Roma dự lễ phong thánh Đấng sáng lập là cha Alfonso Maria Fusco; các sĩ quan trường huấn luyện Modena; và các thành viên của nhiều hiệp hội, trong đó có hiệp hội người tàn tật.
Nhắc tới lễ nhớ thánh Phaolô Thánh Giá sáng lập viên dòng các cha dòng Khổ Nạn hôm qua, ĐTC cầu chúc các bạn trẻ biết suy niệm cuộc Khổ Nạn của Chúa để học biết tình yêu cao cả Chúa dành cho nhân loại; các người bệnh biết vác thánh giá kết hiệp với Chúa Kitô để được vơi nhẹ trong thử thách; và các cặp vợ chồng mới cưới biết dành thời giờ cầu nguyện để cuộc sống hôn nhân trở thành con đường hoàn thiện kitô. Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.
Linh Tiến Khải
Nguồn: VietVatican
Read more…
Trang 1 / 2512345...25»