Đừng làm mafia nhưng hãy sống trong ánh sáng đức tin

11:21 |
Đừng ghen tỵ người giàu có và quyền thế, hay rắp tâm hại người lân cận, nhưng hãy nuôi dưỡng ánh sáng đức tin trong đời mình. Đây là thông điệp của Đức Giáo hoàng Phanxicô trong bài giảng thánh lễ ban sáng ngày thứ hai 19-9 tại Nguyện đường Nhà trọ Thánh Marta.
OSSROM27263_Articolo
Suy niệm về bài Phúc âm theo thánh Luca, Đức Giáo hoàng nói về nhiều cách mà chúng ta giấu nhẹm ánh sáng đức tin, bằng đố kỵ và cãi vã, bằng rắp tâm làm sự dữ với người lân cận, hay đơn giản bằng cách chần chừ trì hoãn đến ngày mai việc tốt ta có thể làm ngày hôm nay.
“Ánh sáng đức tin là ơn mà mỗi người chúng ta nhận được từ Thiên Chúa trong ngày rửa tội. Phép rửa được gọi là ‘Illumination’ sự Khai sáng, trong những thế kỷ tiên khởi của Kitô giáo, một từ vẫn còn được vài Giáo hội Đông phương thời nay sử dụng,
Như Chúa Giêsu đã cảnh báo đám đông đừng che giấu ánh sáng, nên nếu chúng ta che giấu ánh sáng đức tin, là đang trở nên những Kitô hữu lãnh đạm. Chúng ta có nhiều cách để gạt đi ánh sáng đức tin, trước hết là khi trì hoãn việc tốt có thể giúp đỡ người lân cận đang cần kíp. Đừng bao giờ để việc tốt lại cho ngày mai, bởi đấy là một dạng bất công, và chúng ta không thể nào cho ‘việc tốt’ vào tủ lạnh được.
Còn có những người rắp tâm làm sự dữ với người lân cận mình, những người đã tin tưởng mình. Bất kỳ ai chủ tâm làm hại người lân cận, và lợi dụng sự tin tưởng của họ, thì đó là mafia. Sự tối tăm của mafia gạt đi ánh sáng đức tin.
Còn có cám dỗ muốn tranh cãi, ngay cả với những người chẳng làm gì hại đến ta. Tranh cãi làm chúng ta mệt mỏi, nên tốt nhất hãy biết bỏ qua.
Cuối cùng, chúng ta không nên ghen tỵ những người có quyền, thành công hay bạo lực, bởi Thiên Chúa là Đấng kêu gọi người công chính đến làm bạn mình. Ghen tỵ với người có quyền có tiền là một cách khác làm giấu nhẹm ánh sáng  đức tin, phải nhớ người giàu có quyền thế cũng mục rữa trong quan tài như chúng ta.
Chính Chúa Giêsu đã muốn chúng ta làm ‘con cái sự sáng’ và gìn giữ ánh sáng đó chứ không phải giấu dưới gầm giường. Nguyện xin Thánh Thần mà chúng ta lãnh nhận trong phép rửa, giúp chúng ta tránh những thói quen xấu khiến giấu nhẹm ánh sáng đức tin, và thay vào đó xin giúp chúng ta nuôi dưỡng ánh sáng của tình thân và khiêm nhượng, ánh sáng của đức tin và đức cậy, ánh sáng của nhẫn nại và nhân từ .”
J.B. Thái Hòa chuyển dịch từ Vatican Radio
Nguồn: Memaria.net
Read more…

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: 18-9-2016

10:03 |
VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 18-9-2016, ĐTC mời gọi các tín hữu xa tránh lối sống trần tục. Ngài cũng kêu gọi các tín hữu Công Giáo hiệp ý cầu nguyện cho hòa bình thế giới vào ngày 20-9-2016 tới đây.
 Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh trước sự tham dự của hàng chục ngàn tín hữu, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa bài Tin Mừng Chúa nhật thứ 25 thường niên năm C về dụ ngôn người quản lý bất trung, nhưng khôn khéo mua chuộc thiện cảm của các con nợ trước khi bị chủ sa thải.
 Bài huấn dụ của ĐTC
 ”Hôm nay Chúa Giêsu dẫn chúng ta suy tư về hai lối sống đối nghịch nhau: lối sống trần tục và lối sống của Tin Mừng. Và Ngài làm điều ấy qua trình thuật dụ ngôn người quản lý bất trung và tham ô, Chúa Giêsu khen ngợi ông ta mặc dù sự bất lương của ông (Xc Lc 16,1-13). Nhưng cần phải minh định ngay rằng người quản lý ấy không được trình bày như một mẫu gương cần noi theo, nhưng như một thí dụ về sự gian xảo. Người này bị cáo là quản lý bê bối những công việc của ông chủ, và trước khi bị sa thải, ông ta mánh khóe tìm cách thu hút cho mình thiện cảm của các con nợ, bằng cách tha một phần nợ cho họ để đảm bảo cho mình một tương lai. Bình luận về thái độ đó, Chúa Giêsu nhận xét rằng: ”Thực vậy, con cái đời này khôn ngoan hơn con cái sự sáng” (v.8).
 Chúng ta được kêu gọi đáp lại mánh khóe trần tục ấy bằng sự khôn ngoan theo tinh thần Kitô, vốn là một hồng ân của Chúa Thánh Linh. Vấn đề ở đây là xa tránh tinh thần và giá trị của thế gian này, chúng vốn là điều rất làm cho ma quỉ hài lòng, để sống theo Tin Mừng. Sự trần tục được biểu lộ qua những thái độ tham ô, lường gạt, áp bức, và là con đường lầm lạc, con đường tội lỗi, cho dù đó là con đường dễ đi. Trái lại tinh thần Tin Mừng đòi phải có một lối sống nghiêm túc và dấn thân, lương thiện, đúng đắn, tôn trọng người khác và phẩm giá của họ, có tinh thần trách nhiệm. Đó chính là sự khôn ngoan theo tinh thần Kitô!
 ĐTC nhận xét rằng:
 Cuộc đời bao hàm một sự chọn lựa giữa hai con đường ấy: giữa lương thiện và bất chính, giữa lòng trung thành và bất trung, giữa ích kỷ và vị tha, giữa sự thiện và sự ác. Ta không thể đong đưa giữa hai con đường đó, vì chúng đi theo những tiêu chuẩn khác nhau và đối nghịch nhau. Điều quan trọng là quyết định đi theo hướng nào, rồi, sau khi đã chọn lựa đúng đắn, phải quyết liệt tiến bước mau lẹ, tín thác nơi ơn Chúa và sự nâng đỡ của Thánh Thần Chúa. Kết luận của đoạn Tin Mừng thật là mạnh mẽ và quyết liệt: ”Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc họ yêu mến chủ này và ghét chủ kia, hoặc cảm mến chủ này và khinh rẻ chủ kia” (v.13).
 Hôm nay, Chúa Giêsu khuyên nhủ chúng ta hãy chọn lựa rõ ràng giữa Ngài và tinh thần thế tục này, giữa tiêu chuẩn tham ô và ham ố, với tiêu chuẩn ngay chính và chia sẻ. Có người hành xử trong sự tham ô như với ma túy: họ nghĩ là có thể sử dụng nó và ngưng sử dụng khi nào họ muốn. Nhưng cả sự tham ô cũng tạo nên sự chán ngán, tạo ra nghèo đói, bóc lột và đau khổ. Trái lại khi chúng ta tìm cách theo tiêu chuẩn thanh liêm của Tin Mừng, trong sáng trong các ý hướng và trong cách cư xử, và tình huynh đệ, thì chúng ta trở thành những người xây dựng công lý và chúng ta mở ra những chân trời hy vọng cho nhân loại. Trong sự nhưng không và hiến thân cho anh chị em, chúng ta phục vụ người chủ tốt lành là Thiên Chúa.
 Và ĐTC kết luận rằng:
 Xin Mẹ Maria giúp chúng ta chọn lựa con đường đúng đắn trong mọi hoàn cảnh và với bất kỳ giá nào, và tìm ra được lòng can đảm để đi ngược dòng, miễn là theo Chúa Giêsu và Tin Mừng của Chúa.
 Lời chào thăm và kêu gọi
 Sau phép lành, ĐTC đã nhắc đến lễ tôn phong chân phước Elisabetta Sanna hôm thứ bẩy 17-9-2016 vừa qua tại Codrongianos, tỉnh Sassari trên đảo Sardegna của Italia. Chân phước là một bà mẹ gia đình. Sau khi chồng qua đời, Elisabetta hoàn toàn hiến thân cầu nguyện và phục vụ các bệnh nhân cũng như những người nghèo. Chứng tá của chân phước là mẫu gương về lòng bác ái theo tinh thần Tin Mừng được đức tin linh hoạt.
 ĐTC cũng nói rằng: Hôm nay (18-9), Đại Hội Thánh Thể toàn quốc Italia kết thúc tại thành Genova. ”Tôi ngỏ lời đặc biệt cháo thăm các tín hữu tụ họp tại đó, và cầu mong biến cố ơn thánh này khơi dậy nơi nhân dân Italia niềm tin nơi Bí tích Thánh Thể cực thánh, trong đó chúng ta thờ lạy Chúa Kitô là nguồn mạch sự sống và hy vọng cho mỗi người.
 Rồi ĐTC thông báo: ”Thứ ba tới đây, tôi sẽ đi Asssi tham dự cuộc gặp gỡ liên tôn, 30 năm sau cuộc gặp gỡ lịch sử do thánh Gioan Phaolô 2 triệu tập. Tôi mời gọi các giáo xứ, các hội đoàn của Giáo Hội, mà mỗi tín hữu trên toàn thế giới sống ngày thứ ba tới như một Ngày Cầu nguyện cho hòa bình. Theo gương thánh Phanxicô, người của tình huynh đệ và dịu dàng, tất cả chúng ta được mời gọi cống hiến cho thế giới một chứng tá mạnh mẽ về sự dấn thân chung của hcúng ta cho hòa bình và hòa giải các dân tộc.
 Sau cùng, ĐTC còn chào thăm tất cả các tín hữu hành hương, đặc biệt là các tín hữu từ giáo phận Koeln bên Đức và Marianopoli.
 Cũng nên nhắc lại rằng vị tân nữ chân phước vừa được ĐTC nhắc đến, Elisabetta Sanna, là một giáo dân dòng Ba Phanxicô. Elisabetta lập gia đình và được 5 người con. Trở thành góa phụ năm 1825 khi được 37 tuổi, bà khấn giữ khiết tịnh và trở thành mẹ tinh thần của nhiều thiếu nữ và phụ nữ trong vùng.
 Năm 1831, Bà Elisabetta xuống tàu đi hành hương Thánh Địa, nhưng bị kẹt ở Roma và không thể trở về quê vì bị những xáo trộn nặng về thể lý. Bà tận hiến chuyên chăm cầu nguyện và phục vụ các bệnh nhân và người nghèo.
 Elisabetta một trong những người đầu tiên gia nhập Hội Tông Đồ Công Giáo của Thánh Vinh Sơn Pallotti, cũng là cha linh hướng của bà. Nơi bà ở trở thành một đền thánh với đức tin sống động và đức bác ái nhiệt thành. Elisabetta Sanna qua đời tại Roma ngày 17-2 năm 1857, thọ 69 tuổi.
 Án phong chân phước cho bà kéo dài hơn một thế kỷ rưỡi, và lễ phong chân phước cho bà được ĐHY Amato cử hành tại Vương Cung Thánh Đường Chúa Ba Ngôi ở Codrongianos thứ bẩy 17-9-2016.
 G. Trần Đức Anh OP
Nguồn: VietVatican
Read more…

Đời sống phép lạ của Gianna, em bé được Đức Giáo hoàng ôm năm ngoái ở Philadelphia

19:07 |
Em Gianna Masciantonio đã thách thức bão tố và vừa mừng sinh nhật 2 tuổi
Một năm đã qua sau chuyến đi lịch sử của Đức Phanxicô đến Philadelphia, nước Mỹ. Chắc các bạn còn nhớ giây phút thoáng qua nhưng đầy xúc động khi Đức Phanxicô hôn em bé trên trán và làm dấu thánh giá cho em. Hình ảnh biểu tượng và tự nhiên này đã ở trang đầu các báo với tựa: “Phép lạ của Market Street”. Lúc đó chưa ai biết, nhưng đó không phải là phép lạ duy nhất cho em bé Gianna Grace Masciantonio. Phép lạ lớn nhất trong các phép lạ? Em còn sống.
Cho đến khi nụ hôn được đặt trên trán em, Gianna đang chống chọi để được sống. Bốn tuần sau khi sinh, các thử nghiệm cho biết em có khối u nặng trên não. Tình trạng nặng đến mức các bác sĩ phải thú nhận với cha mẹ em, Kristen và Joey, rằng em sống sót sau khi sinh đã là phi thường.
Chẩn đoán thật sốc vì bề ngoài Gianna là một em bé khỏe mạnh, ngoài việc em bị mất thính giác. Sau đó bác sĩ khám phá đây không phải là ung thư nhưng bị một bệnh hiếm về máu gọi là “nhiễm sắc u hạt nơi trẻ em, xanthogranulome juvénile (JXG)”. Dù sao thì chẩn đoán cũng không tốt: khối u tấn công hệ thống thần kinh.
Tình trạng của Gianna nguy kịch và rất hiếm: chỉ có vài trường hợp như thế trên thế giới. Sự hoài nghi ban đầu của Kristen và Joey biến thành cơn hấp hối chậm. Kristen còn nhớ, sau khi biết chẩn đoán, cô quá sợ, cô chỉ biết cầu nguyện, tối nào trước khi đi ngủ cô cũng cầm tràng chuỗi trong tay. Các bạn thân không cách nào gặp được cô: cô chỉ tìm an ủi bên cạnh gia đình và trong lời cầu nguyện.
Từng ngày sống biến thành từng tháng sống và Gianna tiếp tục làm cho các chuyên gia chưng hửng. Họ cho biết em không thể nào tự ăn, em tự ăn được. Em sẽ không bao giờ nghe được ư? Sau ba tháng hóa trị, em bập bẹ vài chữ và bây giờ em gọi được cha mẹ và kêu tên người anh. Em còn biết xin ăn kem (và em được ăn)!
Rồi từng tháng sống được biến thành từng năm, nhưng nỗi sợ vẫn ở từng giây phút vì gia đình luôn sợ tin xấu. Joey rùng mình khi nghĩ đến nỗi sợ hàng ngày, không biết Gianna có sống đến qua ngày mai không.
Gặp Đức Giáo hoàng
Gianna vừa ăn mừng 2 tuổi. Khi nghĩ lại việc Đức Giáo hồng ban phép lành, cha mẹ em vui cười và thán phục. Joey nhớ lại vợ mình đi Philadelphia trong hy vọng mong manh gặp được Đức Giáo hoàng. Rồi ngày trọng đại đến: họ vẫn còn phân vân, nhưng một người bạn thân gọi báo cho họ một tin ngạc nhiên. Người bạn quen một người làm trong FBI, hôm đó người này làm việc ở  Philadelphia và có thể giúp đưa gia đình em Gianna đến gần nhất có thể.
Cẩn thận, Joey gọi cho bác sĩ của Gianna, nghĩ rằng bác sĩ sẽ dứt khoát từ chối không cho đưa em vào đám đông. Nhưng bác sĩ trả lời: “Đi đi chứ!”. Và họ đi.
Một phép lạ thật dưới mắt toàn thế giới?
Cả nhà cùng đi, Dominic trên vai bố, Gianna trong tay mẹ, gia đình đến gặp nhân viên FBI. Khi xe Đức Giáo hoàng đến, mọi người chung quanh Kristen và Joey hét lên: “Đức Thánh Cha! Đức Thánh Cha!” để lưu ý Đức Phanxicô nhìn đến em Gianna. Joey bồng con mình đưa lên cao, còn Kristen giăng một tờ giấy xin Đức Giáo hoàng cầu nguyện cho Gianna. Bỗng nhiên xe Đức Giáo hoàng ngừng lại và ngài nhìn thẳng vào mắt Joey. Joey còn nhớ: “Ngài cười với tôi!”.
Bé Gianna lành khối u não nhờ Đức PhanxicôTháng 9-2015 – Philadelphia – Đức Giáo hoàng ôm Gianna trên trán © Kristen Masciantonio
Hai tháng sau khi Gianna được Đức Giáo hoàng hôn, các thử nghiệm IRM định kỳ thật kinh ngạc. Khối u teo hẳn lại: nó chỉ còn là các u nang do các lần chữa trị trước. Kristen, Joey và các bác sị của họ mừng như điên! Kristen làm chứng: “Chúng tôi đã thấy Gianna chết trong năm đầu tiên, bây giờ em đã trở về với cuộc sống”.
Theo Kristen và Joey, Đức Phanxicô là sứ giả được ban phúc từ Trời. Kristen thố lộ: “Đời sống của Gianna là một phép lạ. Nụ hôn của Đức Phanxicô là cách Chúa Giêsu Kitô chứng tỏ cho chúng tôi thấy, Ngài đi theo chúng tôi và Ngài nghe chúng tôi cầu nguyện”.
Mỗi ngày là một thử thách mới của đức tin
Gianna đã chịu mười giờ phẫu thuật óc, mười lăm tháng hóa trị và bảy lần thay máu. Ngoài ra có khi sau hóa trị, Gianna phải ở bệnh viện một tuần vì sốt cao và vì hồng huyết cầu thấp. Dù với sự hỗ trợ lớn lao và sự dịu dàng sâu đậm của gia đình, đã có những lúc cực kỳ khó khăn cho hai vợ chồng. Nhưng họ cố gắng tập trung vào các ân phúc mình nhận được: mỗi ngày qua đi với Gianna và Dominic là một phép lạ đối với họ. Họ thành lập một quỹ từ thiện, Vì Tình yêu của Ân sủng (For the Love of Grace) để giúp những gia đình có con bị bệnh nặng.
Dù có tất cả các lý do để vui mừng, đđường đi của Gianna còn dài. Kristen cho biết: “Chúng tôi sống từng giờ, từng ngày và từng tháng. Thật không phải dễ, đôi khi nỗi sợ làm chúng tôi tê liệt. Trong những giây phút như vậy, chúng tôi cầu nguyện và phó thác tất cả cho Chúa”.
em-gianna-masciantonio
Marta An Nguyễn chuyển dịch
Read more…

Tìm được giáo đường nông thôn từng đón Chúa Giêsu

17:39 |
Giới khảo cổ học Israel đã công bố phát hiện quan trọng về sự tồn tại của một giáo đường nông thôn ở Galilee, nơi nhiều khả năng đã chào đón bước chân của Chúa Giêsu
Chúa Giêsu từng rao giảng tại nhiều giáo đường Do Thái ở vùng nông thôn của Galilee, theo Tân Ước. Tuy nhiên, phải cho đến gần đây, các nhà khoa học mới tìm được bằng chứng khảo cổ học về sự tồn tại của các giáo đường đó vào thời điểm cách đây khoảng 2.000 năm.

“Ngài đã rao giảng tại đây”
“Chúa Giêsu đi khắp vùng Galilee, rao giảng trong các giáo đường Do Thái, dạy cho mọi người những điều tốt đẹp về vùng đất thánh và chữa lành mọi bệnh tật và đau đớn cho họ”, (Mátthêu 4:23). Mới đây, các nhà khảo cổ học đã tìm được bằng chứng cho thấy các giáo đường nông thôn từng mọc lên ở vùng Galilee. Theo trang Christian Post, sau thời gian dài cần mẫn khai quật, các chuyên gia vô cùng vui mừng khi phát hiện đến 2 điểm có thể chứa các phần còn lại của giáo đường, nhiều khả năng từng đón nhận sự hiện diện của Chúa Giêsu. Ở góc nhìn của giới khoa học, vốn chỉ tin vào bằng chứng rõ ràng trước khi xác nhận điều gì đó, việc khai quật được 2 giáo đường vào thời điểm Chúa Giêsu còn tại thế là manh mối quan trọng để có thể lần theo dấu vết của Đấng Cứu Thế.
Phúc Âm cho biết, Chúa Giêsu đã rao giảng gần khu vực khảo cổ là Tel Rechesh, và một trong hai giáo đường vừa được tìm thấy ở gần núi Tabor (thuộc Hạ Galilee, Israel), có niên đại vào thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Nơi đào bới là khu bảo tồn tự nhiên Nahal Tavor, và phát hiện mới đã được công bố nhờ vào công của các chuyên gia thuộc Viện Đại học Kinneret về Khảo cổ học vùng Galille. Tờ Haaretz dẫn lời tiến sĩ Motti Aviam cho hay, ông tin rằng nhóm của mình đã đến đúng nơi Chúa Giêsu đã rao giảng cách đây 2.000 năm: “Giờ đây chúng tôi biết được nếu tìm thấy một khu định cư Do Thái, được xác định bằng các vò đá và không có xương heo, một địa điểm xây dựng với các hàng ghế chạy dọc theo những bức tường, đó chính là giáo đường”.
Tờ Haaretz tiết lộ giới khảo cổ học trước đó đã đào được 7 giáo đường vào thời Đền thờ thứ hai. Thế nhưng, giáo đường vừa được khai quật là giáo đường thứ hai từng được phát hiện có niên đại trước sự kiện Đền thờ thứ hai bị hủy diệt, và cũng là giáo đường đầu tiên được tìm thấy ở nơi làng mạc thay vì bối cảnh đô thị. Sở dĩ các chuyên gia có thể phân biệt được giáo đường được xây trước và sau thời điểm Đền thờ bị hủy diệt (vào năm 70 sau Công nguyên) là dựa trên các cấu trúc phân bổ trong giáo đường. Trước năm 70, giới hữu trách thời đó không cho phép xây dựng giáo đường với mục đích thờ phụng hoặc cầu nguyện khi Đền thờ thứ hai vẫn còn đó. “Các tài liệu lịch sử cho thấy giáo đường khi ấy được dùng cho những cuộc hội họp, đọc kinh Torah và học hỏi chứ không phải dùng cho mục đích sùng bái. Chúng không hề có các hòm chứa pháp điển Torah hoặc các đồ dùng phục vụ cho lễ cầu nguyện thường xuyên”, theo Haaretz. Và Tân Ước từng nói rằng Chúa Giêsu đi khắp các thị trấn và làng mạc, rao giảng trong các giáo đường.
Điểm hành hương mới
Trả lời phỏng vấn trang tin YNet News, chuyên gia Aviam giải thích lý do tại sao địa điểm khảo cổ Tel Rechesh lại “đánh dấu một nơi vô cùng quan trọng đối với các tín hữu Kitô giáo”. “Tân Ước đã mô tả cảnh tượng Chúa Giêsu thuyết pháp tại một giáo đường ở Capernaum và những giáo đường khác của Galilee”. “Cũng cùng thời gian đó, Chúa Giêsu vẫn là một người Do Thái đang quan sát các nghi lễ của Do Thái giáo, cũng như những điều quy định trong luật đạo, và giống như nhiều giáo sĩ Do Thái khác, ngài rao giảng tại các giáo đường. Thiên Chúa giáo được khai sinh và phát triển sau thời của ngài có một dấu ấn quan trọng trong những bài thuyết giảng tại các giáo đường ở Galilee”, chuyên gia Israel nói.
Trong 5 năm qua, nhóm của tiến sĩ Aviam đã khai quật được một khu phức hợp chứa nhiều công trình xây dựng có niên đại từ thời La Mã, mà ông cho rằng là nơi định cư của một số các gia đình từng quây quần tại giáo đường đó. Cộng đồng này đã may mắn thoát khỏi cuộc chiến đầu tiên giữa người Do Thái - La Mã (năm 66-70), kết thúc với sự hủy diệt của Đền thờ thứ hai. Dựa trên những gì còn sót lại, có vẻ nơi này đã bị bỏ hoang sau cuộc khởi nghĩa Bar Kokhba của người Do Thái (năm 132-136).
Đây không phải là phát hiện quan trọng đầu tiên được tìm thấy trên lãnh thổ Israel có liên quan đến thời của Chúa Giêsu trong năm nay. Hồi tháng 3, các trang tin về khảo cổ dẫn tuyên bố của Cơ quan Cổ vật Israel thông báo về việc phát hiện một số đồ tạo tác thuộc thế kỷ thứ nhất tại trại mồ côi ở Jerusalem. Nay được gọi là khu nhà Schneller, nơi từng bị quân Đức chiếm đóng trong giai đoạn đệ nhị thế chiến, trước khi trở thành căn cứ của Lực lượng quốc phòng Israel. Một trong những phát hiện ấn tượng nhất bao gồm một nơi sản xuất rượu vang với đầy đủ các bích họa, kho hàng và thiết bị ép nho, tất cả được xây dựng cách đây 1.600 năm. Các chuyên gia cũng tìm được một khu định cư Do Thái phải có niên đại từ năm 63 trước công nguyên, và một nhà tắm chứng minh được rằng từng có cộng đồng sinh sống tại nơi này vào giai đoạn Đền thờ thứ hai.
“Chúng tôi tìm được một cái hố gần nhà tắm, nhiều khả năng là nơi rửa tội từ thời Đền thờ thứ hai, chứa đầy các vò thủy tinh và gốm sứ”, trang Chritian Post dẫn lời chuyên gia Amit Re’em của Cơ quan Cổ vật Israel. “Mọi thứ đều là bằng chứng cho thấy gần 2.000 năm trước, quân La Mã đã đến Jerusalem và sau khi hủy diệt cả thành phố vào năm 70, binh lính đã ở trong ngôi nhà này và chúng tôi đã tìm được chứng cứ khảo cổ từ thời đó”, theo ông Re’em.
LING LANG
Nguồn: cgvdt.vn 
Read more…

Hãy sống lòng thương xót để trở thành dụng cụ lòng xót thương

18:12 |
Trong những lúc mệt mỏi và chán chường, chúng ta hãy nhớ lời Chúa mời gọi chúng ta đến với Ngài để đuợc nghỉ ngơi và vơi nhẹ. Đôi khi sự mệt mỏi của chúng ta phát xuất từ việc tin tưởng nơi các sự vật không phải là điều nòng cốt, và vì chúng ta đã xa rời điều thực sự có giá trị trong cuộc sống.
ĐTC Phanxicô đã nói như trên với mấy chục ngàn tín hữu hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hôm qua.
Trong bài huấn dụ ĐTC đã giải thích ý nghĩa đọan Phúc Âm trong đó Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Hãy đến với Ta, tất cả các con là những kẻ mệt nhọc và bị áp bức, Ta sẽ bổ sức cho… Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng và các con sẽ tìm được an nghỉ cho cuộc sống” (Mt 11,28-30). ĐTC nói: lời mời gọi của Chúa gây ngạc nhiên: Ngài mời những kẻ đơn sơ và bị cuộc sống khó khăn đè nặng, Ngài mời gọi những người có biết bao nhu cầu và hứa với họ rằng nơi Ngài họ sẽ tìm được nghỉ ngơi và vơi nhẹ. Lời mời gọi được hướng tới ở thể sai khiến: “Hãy đến với Ta”, “hãy mang lấy ách của Ta” và “hãy học nơi Ta”. Giá mà tất cả mọi vị lãnh đạo trên thế giới có thể nói điều này!
Lời sai khiến thứ nhất “Hãy đến với Ta”. Khi ngỏ lời với những kẻ mệt mỏi và bị áp bức, Chúa Giêsu tự giới thiệu như Người Tôi Tớ của Chúa được miêu tả trong sách ngôn sứ Isaia: “Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi của người môn đệ, để tôi biết ngỏ lời với kẻ mất tin tưởng” (Is 50,4). Bên cạnh những người mất tin tưởng này Tin Mừng cũng thường đặt những kẻ nghèo khó (Mt 11,5) và bé mọn (x. Mt 18,6). ĐTC giải thích như sau:
Đây là những người không thể dựa trên các phương tiện riêng của mình, cũng như trên các tình bạn quan trọng. Họ chỉ có thể tin cậy nơi Thiên Chúa. Ý thức được điều kiện khiêm tốn và bần cùng của mình họ biết họ tuỳ thuộc nơi lòng thương xót của Chúa, bằng cách chờ đợi từ Ngài sự trợ giúp duy nhất có thể có. Trong lời mời của Chúa Giêsu,sau cùng chúng ta tìm thấy câu trả lời cho sự chờ mong của họ: khi trở thành môn đệ của Ngài họ nhận được lời hứa tìm thấy sự nghỉ ngơi cho suốt cuộc đời. Một lời hứa vào cuối Tin Mừng được trải dài ra cho tất cả mọi người: “Các con hãy ra đi – Chúa Giêsu nói với các môn đệ - và làm cho tất cả mọi dân tộc trở thành môn đệ Thầy” (Mt 28,19). Khi tiếp nhận lời mời cử hành Năm Thánh ân sủng này, trên toàn thế giới tín hữu hành hương bước qua Cửa Thánh Lòng Thương Xót, đuợc mở trong các nhà thờ chính toà và các đền thánh và trong biết bao nhiêu nhà thờ trên thế giới; trong các nhà thương, trong các nhà tù… Tại sao lại bước qua Cửa của Lòng Thương Xót này? Để tìm Chúa Giêsu, để tìm tình bạn của Chúa Giêsu, để tìm sự bổ sức mà chỉ có Chúa Giêsu trao ban. Con đường này diễn tả sự hoán cải của từng môn đệ bước theo Chúa Giêsu. Và sự hoán cải luôn luôn hệ tại việc khám phá ra lòng thương xót của Chúa. Và lòng thương xót này vô tận và không thể nào cạn: lòng thương xót của  Chúa thật lớn lao. Như vậy khi bước qua Cửa Thánh, chúng ta tuyên xưng rằng “tình yêu hiện diện trong thế giới và tình yêu đó mạnh hơn mọi thứ sự dữ, trong đó con người, nhân loại, thế giới bị liên lụy” (Gioan Phaolô II, Thiên Chúa giầu lòng thương xót, 7)
Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: lệnh truyền thứ hai là “Hãy mang lấy ách của Ta”. Trong bối cảnh của Giao Ước , truyền thống kinh thánh dùng hình ảnh các ách để ám chỉ mối dây chặt chẽ nối liền dân với Thiên Chúa và vì thế sự tùng phục ý muốn của Ngài được diễn tả ra trong Luật Lệ. Tranh luận với các ký lục và các tiến sĩ luật Chúa Giêsu đặt ách của Ngài trên các môn đệ, trong đó Lề Luật tìm được sự thành toàn của nó. Ngài muốn dậy họ rằng họ sẽ khám phá ra ý của Thiên  Chúa qua con người của Ngài: qua Chúa Giêsu, chứ không qua các luật lệ và các quy tắc lạnh lùng mà chính Chúa Giêsu kết án. Chúng ta có thể đọc chương 23 Phúc Âm thánh Mátthêu. Ngài ở trong trung tâm tương quan của họ với Thiên Chúa, ở trong trung tâm của các tương quan giữa các môn đệ và ở trọng tâm cuộc sống của mỗi người. Khi nhận lấy “ách của Chúa Giêsu” như thế mỗi môn đệ bước vào trong sự hiệp thông với Ngài và chia sẻ mầu nhiệm thập giá và số phận cứu rỗi của Ngài.
Kết qủa là lệnh truyền thứ ba: “Hãy học nơi Ta”. Chúa Giêsu vạch ra cho các môn đệ Ngài một con đường hiểu biết và noi gương. Ngài không phải là một vị thầy một cách nghiêm ngặt áp đặt trên người khác các gánh nặng mà Ngài không mang: đây đã là lời tố cáo mà Ngài đưa ra cho các tiến sĩ luật. Ngài hướng tới các người khiêm tốn và bé nhỏ, các người nghèo, các người túng thiếu, bởi vì chính Ngài cũng tự trở thành bé nhỏ và khiêm tốn. Ngài  hiểu biết người nghèo và người đau khổ, bởi vì chính Ngài cũng nghèo nàn và bị  thức thách bởi khổ đau. ĐTC giải thích thêm:
Để cứu rỗi nhân loại Chúa Giêsu đã không đi theo một con đường dễ dàng, trái lại, con đường của Ngài đã là con đường khổ đau và khó khăn. Như viết trong thư gửi tín hữu Philiphê: “Người đã hạ mình bằng cách vâng lời cho đến chết và chết trên thập tự” (Pl 2,8). Ách mà các người nghèo và các người bị áp bức mang cũng chính là ách mà Ngài đã mang trước họ: vì thế nó là một ách nhẹ nhàng. Ngài đã mang trên vai các khổ đau và tội lỗi của toàn nhân loại. Như vậy đối với người môn đệ nhận lấy ách của Chúa Giêsu có nghĩa là  nhận lấy sự mạc khải của Ngài và tiếp đón nó: nơi Ngài lòng thương xót của Thiên Chúa đã lo lắng cho các nghèo khó của con người, và như thế trao ban cho tất cả mọi người khả thể của ơn cứu độ. Nhưng tại sao Chúa Giêsu lại có khả năng nói các điều này? Bởi vì Ngài đã biến thành tất cả cho mọi người, gần gũi mọi nguời, gần gũi những kẻ nghèo túng! Ngài đã là một mục tử sống giữa dân chúng, sống giữa người nghèo… Ngài đã làm việc suốt ngày với họ. Chúa Giêsu đã không phải là một hoàng tử. Thật là xấu cho Giáo Hội, khi các mục tử trở thành các ông hoàng, sống xa cách dân chúng, xa cách người nghèo: đó không phải là tinh thần của Chúa Giêsu. Ngài quở trách các mục tử này và Chúa Giêsu nói với dân chúng về các mục tử này như sau: “Hãy làm điều họ nói, nhưng đừng làm như họ”
Anh chị em thân mến đối với cả chúng ta nữa cũng có những lúc mệt mỏi và chán nản. Khi đó chúng ta hãy nhớ tới các lời này của  Chúa, trao ban cho chúng ta biết bao an ủi và làm cho chúng ta hiểu rằng chúng ta đang dùng sức lực của mình để phục vụ sự thiện. Thật thế, đôi khi sự mệt nhọc của chúng ta là do đã tin tưởng nơi các điều không phải là nòng cốt, bởi vỉ chúng ta đã xa rời điều thực sự có giá trị trong cuộc sống. Chúa dậy chúng ta đừng sợ hãi theo Ngài, bởi vì niềm hy vọng mà chúng ta đặt nơi Ngài sẽ không bị thất vọng. Như thế chúng ta được mời gọi học nơi Ngài sống lòng thương xót có nghĩa là gì để là dụng cụ của lòng thương xót. Sống lòng thương xót để là dụng cụ của lòng xót thương: sống lòng thương xót có nghĩa là cảm thấy mình cần lòng thương xót của Chúa Giêsu, và khi chúng ta cảm tháay mình cần ơn tha thứ, cần sự ủi an, cần lòng thương xót của Chúa Giêsu, chúng ta học thương xót các người khác.
Giữ cái nhìn trên Con Thiên Chúa làm cho chúng ta hiểu chúng ta còn biết bao đường phải đi; nhưng đồng thời  cũng đổ tràn đầy trên chúng ta niềm vui biết rằng chúng ta đang cùng đi với Ngài và chúng ta không bao giờ cô đơn. Như thế hãy can đảm lên nhé! Can đảm! Chúng ta đừng để lấy mất đi niềm vui là môn đệ của Chúa. “Nhưng mà thưa cha con là kẻ tội lỗi, làm sao con có thể làm được?” Hãy để cho Chúa nhìn bạn, hãy mở con tim bạn ra, hãy cảm nhận trên bạn cái nhìn của Ngài, lòng thương xót của Ngài, và con tim của bạn sẽ được tràn đầy niềm vui, niềm vui của sự tha thứ, nếu bạn đến gần xin ơn tha thứ. Chúng ta đừng để cho mình bị đánh cắp đi niềm hy vọng sống cuộc sống với Ngài và với sức mạnh của sự an ủi của Ngài.
ĐTC đã chào nhiều nhóm hiện diện. Trong số các nhóm nói tiếng Pháo ngài chào tín hữu tổng giáo phận Rouen do ĐGM sở tại hướng dẫn, các chủng sinh giáo phận Lille, cũng như Liên hiệp các cựu học sinh các trường của dòng Tên, các tín hữu Bỉ và Thụy Sĩ.
Ngài cũng chào tín hữu đến từ các nước Anh, Êcốt, Ailen, Bỉ, Australia, Indonesia, Malaysia, Canada, Hoa Kỳ, Đức, Áo, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan, Croazia, Slovacchia và các nước châu Mỹ Latinh. Ngài nhắc cho mọi người biết hôm qua là lễ Tôn vinh Thánh Giá, trên đó Con Thiên Chúa đã chết để cứu chuộc nhân loại. Nó là câu trả lời của Thiên Chúa cho sự dữ và tội lỗi của con người. Một câu trả lời của tình yêu, lòng thương xót và ơn tha thứ.
Trong số các nhóm nói tiếng Ý ĐTC chào tín hữu các giáo phận Lugano, Acerta Cento, các nữ tu Clarét thuộc nhiều quốc gia khác nhau về hành hương Năm Thánh, nhóm Biomedia Milano. Ngài cầu mong mọi người có những ngày hành hương hữu ích và tràn đầy ơn thánh.
Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC chúc các bạn trẻ hăng hái bước vào năm học mới sau kỳ nghỉ hè trong thái độ đối thoại với Chúa; người đau yếu tìm thấy nơi thập gía Chúa niềm an ủi, ánh sáng và bình an; các đôi vợ chồng mới cưới luôn sống trong tương quan với Chúa Kitô chịu đóng đinh để tình yêu của họ luôn được chân thực, phong phú và bền lâu.
Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.
Linh Tiến Khải
Nguồn: VietVatican
Read more…

Đức Thánh Cha ca ngợi sự tiếp cận có tính tế nhị đối với những người tái kết hôn

16:40 |
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã ca ngợi các Đức Giám Mục Argentina về cách thức hành động của các Ngài trong việc tiếp xúc với những người ly dị tái kết hôn. Sau một quá trình dài biện phân và đồng hành, các tín hữu có liên quan sẽ có thể được phép đi đến với Tòa Cáo Giải và lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, trong từng trường hợp cá biệt. Đó là nội dung trong cuốn hướng dẫn của các Đức Giám Mục vùng Buenos Aires dành cho các Linh mục của mình. Một sự “tiếp cận không hạn chế đối với các Bí Tích” là điều không được nghĩ tới, đúng hơn, đó là sự quyết định trong từng trường hợp – các Đức Giám mục nhấn mạnh.
Cuốn hướng dẫn này của các Đức Giám Mục Argentina sẽ “đưa đến nhiều lợi ích”, đặc biệt là về ý nghĩa của nó đối với  công cuộc “Mục Vụ Đức Ái” – Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã ca ngợi như thế trong một bức thư mà nhật báo L´Osservatore Romano của Tòa Thánh Vatican mới trích dẫn lại. Bản văn này hoàn toàn đi theo cùng một tuyến với Thông Điệp Amoris laetitia, và nhắm trực tiếp vào chương 8 của Thông Điệp nêu trên. “Không có bất cứ cách diễn giải nào khác” – Đức Thánh Cha đã giải thích như thế trong bức thư của Ngài. Chương 8 của Thông Điệp Amoris laetitia, dưới tiêu đề “Đồng Hành Với Sự Mỏng Giòn, Biện Phân Và Liên Kết”, là sự tiếp cận với các tín hữu Công giáo đang bị liên lụy đến những tình trạng bất hợp pháp về gia đình.
Điều căn bản: Một sự quan tâm đầy nỗ lực xuất phát từ sự gần gũi nhất
Trong lá thư của mình gửi cho các Đức Giám mục vùng Buenos Aires, Đức Thánh Cha cũng đã giải thích về khái niệm “Mục Vụ Đức Ái” mà Ngài đưa ra: Đó là một sự quan tâm “đầy nỗ lực” xuất phát từ sự gần gũi nhất, mà sự quan tâm ấy không bị giản lược vào “sự giàn xếp theo khuôn mẫu, theo tổ chức hay mang tính pháp lý” theo kiểu của một kẻ môi giới. Các Linh mục cũng nên luyện tập đi luyện tập lại hành vi biện phân có tính mục vụ cho mạnh mẽ hơn – Đức Thánh Cha khuyên. Trong số bốn hành vi mục vụ mà Đức Thánh Cha chỉ ra – đón nhận, đồng hành, biện phân và đồng liên kết – theo sự quan sát của Ngài, thì sự biện phân lại đang là hành vị được thực hành ít nhất. Vì thế, Đức Thánh Cha khuyến khích, hãy đào tạo các Linh mục tương lai một cách tốt hơn theo nguyên tắc ấy.
Trong bản hướng dẫn của mình với tên gọi là “Criterios básicos para la aplicación del capítulo VIII de Amoris laetitia” (Những tiêu chuẩn căn bản nhằm ứng dụng chương 8 của Thông Điệp Amoris laetitia), các Đức Giám Mục vùng Buenos Aires nhấn mạnh rằng, việc cho phép lãnh nhận các Bí Tích không thể là bất cứ điều chi khác ngoài kết quả của một quá trình biện phân căn bản trong từng trường hợp. Linh mục phải đồng hành “cá nhân và mục vụ” trong quá trình này. Tuyệt đối không được hành động cách máy móc: Không phải cứ kết thúc con đường là có một sự tiếp cận với các Bí Tích. Cũng có thể nghĩ tới việc các tín hữu liên quan càng ngày càng tái tham dự hơn nữa vào với đời sống của Giáo hội, chẳng hạn như trong các buổi cầu nguyện hay suy niệm, hay trong những sứ vụ khác nhau của Giáo hội. Trong khi tham dự Đại Hội Quốc Tế về Gia Đình Công Giáo tại Philadelphia, Hoa Kỳ, Đức Thánh Cha đã công khai ca ngợi gương sáng của một cặp hôn nhân như thế.
Những người ly dị tái kết hôn nên được khuyên rằng, trong cuộc sống chung, họ cần tiết chế trước sinh hoạt tính dục theo mức độ bao nhiêu có thể – các Đức Giám Mục Argentina đã đưa ra chỉ dẫn cho các Linh mục của mình như thế. Nhưng điều này không luôn luôn là một con đường có thể dễ dàng vượt qua như các mục tử cao cấp mong đợi. Về những điều chẳng hạn như lỗi của những người có liên quan khá nhỏ, hay có nguy cơ dẫn tới một sự gây hại cho con cái từ cuộc hôn nhân mới, thì Thông Điệp Amoris laetitia đã mở ra “khả năng tiếp cận với các Bí Tích Giao Hòa và Thánh Thể” – các Đức Giám Mục vùng Buenos Aires viết.
Cảnh giác trước các gương mù: Ban các Bí Tích cách thận trọng
Nhưng điều này không được hiểu là một sự tiếp cận không hạn chế với các Bí Tích, và cũng không được biện minh trong từng trạng huống. Chẳng hạn như sự lâu bền của cuộc hôn nhân mới, của sự trắc trở trong các mối tương quan bị lập đi lập lại, hay sự định giá về tình trạng cuộc sống riêng, thì sự biện phân luôn luôn đóng một vai trò đặc biệt.
Điều quan trọng là sự thẩm tra lương tâm của những người có liên quan. Trong trường hợp “những điều phi pháp không được giải quyết” thì việc lãnh nhận Bí Tích là điều “cực kỳ gây bất mãn”. Việc ban Bí Tích trong từng trường hợp với một sự thận trọng đặc biệt, nhất là khi những xung đột đang rình rập, là một điều hợp lý. Ngay cả một bầu khí hiểu biết và cởi mở cũng không được phép tạo ra một cách hiểu “có tính bừa bãi trước Giáo huấn của Hội Thánh về hôn nhân bất khả phân ly” – Nhật báo L´Osservatore của Tòa Thánh Vatican đã trích lại lời của các Đức Giám Mục Argentina như thế.
Theo rv/kna 13.09.2016 gs
Lm. Đa-minh Thiệu
Nguồn: Daminhtamhiep.net
Read more…

Những khác biệt căn bản giữa Công Giáo, Chính Thống Giáo và Tin Lành

07:00 |
Hỏi: Trong bài trước cha đã nói đến các Đạo cùng tôn thờ Thiên Chúa nhưng khác nhau về nhiều mặt thần học, tín lý, giáo lý, bí tích, phụng vụ, v.v ... Xin cha nói rõ hơn về những khác biệt này giữa Công Giáo, Chính Thống và Tin Lành.
 


Trả lời: Như đã giải thích trong bài trước, cả ba Nhánh Kitô Giáo trên đây, từ đầu, đều thuộc Đạo Thánh của Chúa Kitô gọi chung là Kitô Giáo (Christianity). Nhưng theo dòng thời gian, đã có những biến cố gây ra tình trạng rạn nứt hay ly giáo (schisms) hoặc những cải cách (reformations) đáng tiếc xảy ra khiến Kitô Giáo bị phân chia thành 3 Nhánh chính trên đây. Ngoài ra, còn một nhánh Kitô Giáo nữa là Anh Giáo (Anglican Communion) do vua Henri VIII (1491-1547) của nước Anh chủ xướng năm 1534 để lập một Giáo Hội riêng cho Nước Anh, tách khỏi Rôma chỉ vì Tòa Thánh La Mã (Đức Giáo Hoàng Clement VII) không chấp nhận cho nhà vua ly di để lấy vợ khác.

Cho đến nay, các nhóm ly khai trên vẫn chưa hiệp thông được với Giáo Hội Công Giáo vì còn nhiều trở ngại chưa vượt qua được. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng giới hạn trong câu hỏi được đặt ra, tôi chỉ xin nên sau đây những dị biệt căn bản giữa ba Nhánh Kitô Gíáo lớn trên đây mà thôi.

I- Chính Thống (orthodoxy) khác biệt với Công Gíáo La Mã (Roman Catholicism) ra sao?

Trước hết, danh xưng Chính Thống "Orthodoxy", theo ngữ căn (etymology) Hy lạp " orthos doxa", có nghĩa là "ca ngợi đúng (right-praise), "tin tưởng đúng " (right belief) . Danh xưng này được dùng trước tiên để chỉ lập trường của các giáo đoàn đã tham dự các Công Đồng đại kết (Ecumenical Councils) Nicêa I (325) Ephêsô (431) và nhất là Chalcedon (451) trong đó họ đã đồng thanh chấp thuận và đề cao những giáo lý được coi là chân chính (sound doctrines), tinh tuyền của Kitô Gíáo để chống lại những gì bị coi là tà thuyết hay lạc giáo (heresy).Do đó,trong bối cảnh này, từ ngữ "orthodoxy" được dùng để đối nghịch với từ ngữ " heresy" có nghĩa là tà thuyết hay lạc giáo. Nhưng sau biến cố năm 1054 khi hai Giáo Hội Kitô Giáo Hy Lạp ở Constantinople (tượng trưng cho Đông Phương) và Giáo Hội Công Giáo La Mã (Tây Phương) đã xung đột và ra vạ tuyệt thông cho nhau (anthemas=excommunications) ngày 16 tháng 7 năm 1054 giữa Michael Cerularius, Thượng Phụ Constantinople và Đức cố Giáo hoàng Leo IX vì có những bất đồng lớn về tín lý, thần học và quyền bính, thì danh xưng "Chính Thống" (orthodoxy) lại được dùng để chỉ Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople đã ly khai không còn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo La Mã. Sau này, Giáo Hội "Chính Thống" Hy Lạp ở Constantinople đã lan ra các quốc gia trong vùng như Thổ nhĩ Kỳ, Nga, Albania, Estonia, Cyprus, Finland, Latvia, Lithuania, Rumania, Bulgaria, Serbia, Ukraine ...Vì thế, ở mỗi quốc gia này cũng có Giáo Hội Chính Thống nhưng độc lập với nhau về mọi phương diện.Nghĩa là không có ai là người lãnh đạo chung của các Giáo Hội này, mặc dù họ có tên gọi chung là các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương (Eastern Orthodox Churches) tách khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã. (Tây Phương)

Tuy nhiên, hiện nay Thượng Phụ (Patriarch) Giáo Hội Chính Thống Thổ Nhĩ Kỳ ở Istanbul được coi là Thượng Phụ Đại Kết (Ecumenical Patriarch) của các Giáo Hội Chính thông Đông Phương.Cách nay 2 năm Đức Thánh Cha Bê-nê-đich tô 16 đã sang thăm Đức Thượng phụ Giáo Chủ Chính Thống Thổ để tỏ thiện chí muốn đối thoại, đưa đến hiệp thông giữa hai Giáo Hội anh em. Riêng Giáo Hội Chính Thống Nga, cho đến nay, vẫn chưa tỏ thiện chí muốn xích gần lại với Giáo Hội Công Giáo La Mã, vì họ cho rằng Công Giáo muốn "lôi kéo" tín đồ Chính Thống vào Công Giáo sau khi chế độ cộng sản ở Nga tan rã, tạo điều kiện thuận lợi cho Giáo Hội Chính Thông Nga hành Đạo.

Trước khi xẩy ra cuộc ly giáo năm 1054, hai Nhánh Kitô giáo lớn ở Đông và Tây phương (The Greek Church and the Holy See=Rome) nói trên vẫn hiệp thông trọn vẹn với nhau về mọi phương diện vì cả hai Giáo Hội anh em này đều là kết quả truyền giáo ban đầu của các Thánh Tông Đồ Phêrô và Anrê. Lịch sử truyền giáo cho biết là Thánh Phêrô đã rao giảng Tin mừng ở vùng đất nay là lãnh địa của Giáo Hội Công Giáo La Mã (Roma) trong em ngài, Thánh Anrê (Andrew) sang phía Đông để rao giảng trước hết ở Hy lạp và sau đó trong phần đất nay là Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Như thế, cả hai Giáo Hội KitôGiáo Đông Phương Constantinople và Tây Phương Rôma đều có nguồn gốc Tông đồ thuần túy (Apostolic succession).

Sau đây là những điểm gây bất đồng khiến đi đến ly giáo (schism) Đông Tây

1- Về tín lý:

Giáo Hội Chính Thống Đông Phương- tiêu biểu ban đầu là Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople- bất đồng với Giáo Hội Công Giáo La Mã về từ ngữ “ Filioque” (và Con) thêm vào trong Kinh Tin Kính Nicêa tuyên xưng “Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha, và Chúa Con mà ra”.

Giáo Hội Chính Thông Đông Phương cũng không công nhận các tín điều về Đức Mẹ Vô Nhiễm Thai (Immaculate Conception) và Lên Trời cả hồn xác (Assumption) mặc dù họ vẫn tôn kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos). Sở dĩ thế, vì họ không công nhận vai trò lãnh đạo Giáo Hội của Đức Giáo Hoàng, nên đã bác bỏ mọi tín điều được các Đức Giáo Hoàng công bố với ơn bất khả ngộ (Infallibility) mà Công Đồng Vaticanô I (1870) đã nhìn nhận.

Chính vì họ không công nhận quyền và vai trò lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ của Đức Giáo Hoàng Rôma, nên đây là trở ngại lớn nhất cho sự hiệp nhất (unity) giữa hai Giáo Hội Chính Thống và Công Giáo cho đến nay, mặc dù hai bên đã tha vạ tuyệt thông cho nhau sau cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Constantinople là Athenagoras I năm 1966.

Giáo Hội Chính Thống có đủ bảy bí tích hữu hiệu như Công Giáo. Tuy nhiên, với bí tích rửa tội thì họ dùng nghi thức dìm xuống nước (immersion) 3 lần để nhấn mạnh ý nghĩa tái sinh vào đời sống mới, trong khi Giáo Hội Công Giáo chỉ dùng nước đổ trên đầu hay trán của người được rửa tội để vừa chỉ sự tẩy sạch tội nguyên tổ và các tội cá nhân (đối với người tân tòng) và tái sinh vào sự sống mới, mặc lấy Chúa Kitô.

2-Về phụng vụ: 

Giáo Hội Chính Thống dùng bánh có men (leavened bread) và ngôn ngữ Hy lạp khi cử hành phung vụ trong khi Giáo Hội Công Giáo dùng bánh không men (unleavened bread) và tiếng Latinh trong phụng vụ thánh trước Công Đồng Vaticanô II, và nay là các ngôn ngữ của mọi tín hữu.

3-Sau hết, về mặt kỷ luật giáo sĩ: 

Giáo Hội Chính Thông cho phép các phó tế và linh muc được kết hôn trừ Giám mục, trong khi kỷ luật độc thân (celibacy) lại được áp dụng cho mọi cấp bậc trong hàng giáo sĩ và tu sĩ Công Giáo, trừ phó tế vĩnh viễn (pernanent deacons).

Đó là những khác biệt căn bản giữa Giáo Hội Chính Thống Đông Phương và Giáo Hội Công Giáo La Mã.

Tuy nhiên, dù có những khác biệt và khó khăn trên đây, Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống Đông Phương đều rất gần nhau về nguồn gốc tông đồ và về nền tảng đức tin, giáo lý, bí tích và Kinh thánh. Vì thế, giáo lý của Giáo Hội Công Giáo đã dạy rằng: “Đối với các Giáo Hội Chính thống, sự hiêp thông này sâu xa đến nỗi “chỉ còn thiếu một chút là đạt được mức đầy đủ để có thể cho phép cử hành chung phép Thánh Thể của Chúa Kitô” (x.SGLGHCG, số 838).

II- Tin lành (Protestantism) và những khác biệt với Công Giáo.

Như đã nói trong bài trước, Tin lành, nói chung, là Nhánh KitôGíao đã tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo sau những cuộc cải cách tôn giáo do Martin Luther, một linh mục Dòng thánh Augustinô, chủ xướng vào năm 1517 tại Đức và lan sang Pháp với John Calvin và Thụy sỹ với Ulrich Zwingli và các nước Bắc Âu sau đó.

1- Ở góc độ thần học: 

Những người chủ trương cải cách (reformations) trên đã hoàn toàn bác bỏ mọi nền tảng thần học về bí tích và cơ cấu tổ chức giáo quyền (Hierachy) của Giáo Hội Công Giáo. Họ chống lại vai trò trung gian của Giáo Hội trong việc hòa giải con người với Thiên Chúa qua bí tích tha tội hay hòa giải (reconciliation) vì họ không nhìn nhận bí tích truyền chức thánh (Holy Orders) qua đó Giám mục, Linh mục được truyền chức thánh và có quyền tha tội nhân danh Chúa Kitô (in persona Christi) cũng như thi hành mọi sứ vụ (ministry) thiêng liêng khác (rửa tội, thêm sức, thánh thể, Xức dầu thánh, chứng hôn).

Điểm căn bản trong nền thần học của Tin Lành là con người đã bị tội tổ tông phá hủy mọi khả năng hành thiện rồi (làm việc lành), nên mọi nỗ lực cá nhân để được cứu rỗi đều vô ích và vô giá trị. Chỉ cần tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô dựa trên Kinh Thánh là được cứu rỗi mà thôi. (Sola fide, sola scriptura). Ngược lại, Giáo Hội Công Giáo tin rằng con người vẫn có trách nhiệm cộng tác với ơn Chúa để được cứu rỗi. Nói khác đi, muốn được cứu độ, con người phải cậy nhờ trước hết vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô, nhưng cũng phải có thiện chí công tác với ơn thánh để sống và thực thi những cam kết khi được rửa tội. Nếu không, Chúa không thể cứu ai được như Chúa Giêsu đã nói rõ: “không phải bất cứ ai thưa với Thầy: lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ có ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi .” (Mt 7:21).

Nói khác đi, không phải rửa tội xong, rồi cứ hát Alleluia và kêu danh Chúa Kitô là được cứu độ. Điều quan trong hơn nữa là phải sống theo đường lối của Chúa, nghĩa là thực thi những cam kết khi được rửa tội: đó là mến Chúa, yêu người và xa lánh tội lỗi. Nếu không, rửa tội và kêu danh Chúa thôi sẽ ra vô ích.

Anh em tin lành không chia sẻ quan điển thần học này, nên họ chỉ chú trọng vào việc đọc và giảng kinh thánh nhưng không nhấn mạnh đến phần đóng góp của con người như Chúa Giêsu đòi hỏi trên đây. Ngoài phép rửa và kinh thánh, họ không tin và công nhận một bí tích nào khác. Điển hình, vì không công nhận phép Thánh Thể, nên họ không tin Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong hình bánh và rượu, mặc dù một số Giáo phái Tin lành có nghi thức bẻ bánh và uống rượu nho khi họ tụ họp để nghe giảng kinh thánh. Sứ vụ quan trọng của họ chỉ là giảng kinh thánh vì họ chỉ tin có Kinh Thánh (Sola Scriptura) mà thôi.

2- Nhưng Kinh Thánh được cắt nghĩa theo cách hiểu riêng của họ.

Cho nên có rất nhiều mâu thuẫn hay trái ngược với cách hiểu và cắt nghĩa của Giáo Hội Công Giáo. Thí dụ, câu Phúc Âm trong Matthêu 22 : 8-9 trong đó Chúa Giêsu dạy các tông đồ “ không được gọi ai dưới đất là cha là thầy vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời” mà thôi. Vì họ hiểu câu này hoàn toàn theo nghĩa đen (literal meaning) nên đã chỉ trích Giáo Hội Công Giáo là ‘lạc giáo=heretical” vì đã cho gọi Linh mục là “Cha” (Father, Père, Padre)!.

Thật ra, Giáo Hội cho phép gọi như vậy, vì căn cứ vào giáo lý của Thánh Phaolô, và dựa vào giáo lý này, Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Tín lý Lumen Gentium đã dạy rằng; “Linh mục phải chăm sóc giáo dân như những người cha trong Chúa Kitô vì đã sinh ra họ cách thiêng liêng nhờ phép rửa và giáo huấn .” (1 Cor 4: 15; LG. số 28).

Một điểm sai lầm nữa trong cách đọc và hiểu kinh thánh của Tin lành là câu Phúc Âm Thánh Marcô kể lại một ngày kia Chúa Giêsu đang giảng dạy cho một đám đông người thì Đức Mẹ cà các môn đệ của Chúa đến. Có người trong đám đông đã nói với Chúa rằng: “Thưa Thầy có mẹ và anh em, chị em của Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy .” (Mc 3:32). Anh em tin lành đã căn cứ vào câu này để phủ nhận niềm tin Đức Mẹ trọn đời đồng trinh của Công Giáo và Chính thống, vì họ cho rằng Mẹ Maria đã sinh thêm con cái sau khi sinh Chúa Giêsu. Nghĩa là họ chỉ tin Đức Mẹ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu mà thôi. Thật ra cụm từ “anh chị em “trong ngữ cảnh (context) trên đây chỉ là anh chị em theo nghĩa thiêng liêng (spiritual brotherhood, sisterhood) và đây là cách hiểu và giải thích Kinh Thánh của Công Giáo và Chính Thống, khác với Tin lành.

Sau hết, về mặt quyền bình, các giáo phái Tin lành đều không công nhận Đức Giáo Hoàng là Đại Diện duy nhất của Chúa Kitô trong sứ mạng chăn dắt đoàn chiên của Người trên trần thế.

3- Về bí tích:

Tất cả các nhóm Tin Lành đều không có các bí tích quan trọng như Thêm sức, Thánh Thể, Hòa giải, Sức Dầu bệnh nhân và Truyền Chức Thánh vì họ không có nguồn gốc Tông Đồ (Apostolic succession) do đó, không có chức linh mục và giám mục hữu hiệu để cử hành các bí tích trên.

Đa số các nhóm này chỉ có phép rửa (Baptism) mà thôi. Nhưng nếu nhóm nào không rửa tội với nước và công thức Chúa Ba Ngôi (The Trinitarian Formula) thì không thành sự (invalidly). Do đó, khi gia nhập Giáo Hội Công Giáo, tín hữu Tin Lành nào không được rửa tội với nước và công thức trên thì phải được rửa tội lại như người tân tòng (catechumen). Nếu họ được rửa tội thành sự thì chỉ phải tuyên xưng đức tin khi gia nhập Công Giáo mà thôi.

Đó là những khác biệt căn bản giữa Công Giáo và Tin Lành nói chung. Tuy nhiên, Giáo Hội vẫn hướng về các anh em ly khai này và mong ước đạt được sự hiệp nhất với họ qua nỗ lực đại kết (ecumenism) mà Giáo Hội đã theo đuổi và cầu nguyện trong nhiều năm qua.

Chúng ta tiếp tục cầu xin cho mục đích hiệp nhất này giữa những người có chung niềm tin vào Chúa Kitô nhưng đang không hiệp thông (communion) với Giáo Hội Công Giáo, là Giáo Hội duy nhất Chúa Giêsu đã thiết lập trên nền tảng các Tông đồ.

 
 Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Read more…

Khi Người không đáp trả

10:24 |
Tôi gọi mà Chúa không đáp trả. Tôi xin mà Chúa không cho. Có những vực sâu của tâm hồn, có những đêm dài bất an, tôi hướng về Chúa nhưng tôi không gặp.  
Ai trong các con có bạn hữu nửa đêm đến nhà mình nói: Bạn ơi, cho tôi mượn mấy tấm bánh, vì bằng hữu ở xa tới mà tôi hết đồ ăn rồi. Người kia ở trong trả lời: Ðừng quấy rầy người ta, cửa đóng rồi, trẻ nhỏ ngủ hết, ai dậy mà lấy cho ông được. Nhưng nếu họ cứ gõ hoài. Ta bảo thật, người ấy không dậy mà cho vì tình bạn bè thì ít ra vì họ quấy rầy nên cũng ráng dậy mà lấy cho họ. Nên Ta bảo cho các con rõ: Vì hễ ai xin, sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ sẽ mở cho (Lc. 11: 5-10).
Read more…

Thiên Chúa luôn chờ đợi và tha thứ cho chúng ta

14:45 |
VATICAN. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật, ngày 11.09,  Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng với ba dụ ngôn trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu trình bày cho chúng ta gương mặt đích thật của Thiên Chúa. Ngài là một người cha với vòng tay rộng mở, đối xử với kẻ tội lỗi bằng sự dịu hiền và lòng xót thương.
Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha
“Phụng vụ hôm nay đề nghị với chúng ta chương 15, Tin Mừng theo thánh Luca. Chương này nói về lòng thương xót, bao gồm ba dụ ngôn, qua đó Đức Giêsu đáp lại những lời xì xầm của các kinh sư và luật sỹ. Họ chỉ trích Đức Giêsu về những hành động của Ngài. Họ nói: ‘Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng’ (Lc 15, 2). Với ba dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn mọi người hiểu rằng Thiên Chúa Cha muốn dành thái độ đón nhận, cảm thông và thương xót trước hết cho những người tội lỗi. Trong dụ ngôn thứ nhất, Thiên Chúa được miêu tả như vị mục tử sẵn sàng bỏ lại chín mươi chín con chiên để đi tìm con chiên bị lạc mất. Ở dụ ngôn thứ hai, Thiên Chúa được ví với người phụ nữ đánh mất đồng bạc, đã thắp đèn đi tìm cho kỳ được. Với dụ ngôn thứ ba, Thiên Chúa được miêu tả giống như người cha đón nhận và tha thứ cho đứa con hoang đàng bỏ nhà đi xa; hình ảnh người cha đã vén mở trái tim nhân hậu của Thiên Chúa được diễn tả nơi Đức Giêsu.
Điểm chung của cả ba dụ ngôn này là điều được diễn tả ngang qua các động từ có ý nghĩa chung vui với nhau, mở tiệc ăn mừng. Không phải khóc than, buồn sầu nhưng là chung vui với nhau và mở tiệc mừng. Người mục tử đã mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó’ (Lc 15, 6).  Người phụ nữ cũng mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất’ (Lc 15, 9). Cũng vậy, người cha nói với đứa con cả: ‘Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy’ (Lc 15, 32). Ở hai dụ ngôn đầu, Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến sự vui mừng. Niềm vui ấy lớn đến nỗi khiến cho người ta phải chia sẻ với ‘bạn bè và hàng xóm’. Trong dụ ngôn thứ ba, điểm quan trọng là tiệc mừng. Tiệc mừng ấy xuất phát từ trái tim giầu lòng thương xót của người cha và lan tỏa đến khắp mọi người trong nhà. Tiệc mừng mà Thiên Chúa dành cho những ai biết ăn năn trở lại với Ngài thật am hợp biết bao với tâm tình mà chúng ta đang trải nghiệm trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này. Chúng ta đều dùng một thuật ngữ chung ‘năm toàn xá’!
Với ba dụ ngôn này, Đức Giêsu trình bày cho chúng ta gương mặt đích thật của Thiên Chúa, là người cha với vòng tay rộng mở, đối xử với kẻ tội lỗi bằng sự dịu hiền và lòng xót thương. Dụ ngôn cảm động nhất, vì diễn tả tình yêu vô biên của Thiên Chúa, là dụ ngôn về người cha chạy ra ôm cổ người con trai bị lạc mất và hôn lấy hôn để. Như vậy, điểm đánh động ở đây không phải là câu chuyện buồn về một chàng thanh nhiên trẻ bị rơi vào cảnh suy đồi, nhưng chính là những lời nói đầy xác quyết của anh: ‘Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha’ (Lc 15, 18). Con đường về nhà là con đường của hy vọng và của một đời sống mới. Thiên Chúa luôn chờ đợi chúng ta bắt đầu cuộc hành trình trở về. Ngài đợi chờ chúng ta với niềm hy vọng. Ngài trông thấy ta khi ta còn ở mãi đằng xa. Ngài chạy ra ôm chầm lấy ta, hôn lấy hôn để và sẵn sàng tha thứ hết mọi tội lỗi. Thiên Chúa là như thế đó! Cha của chúng ta đáng yêu như thế đó! Sự tha thứ của Thiên Chúa xóa bỏ quá khứ lầm lỗi và tái sinh chúng ta trong tình yêu. Quên đi quá khứ chính là điểm yếu của Thiên Chúa. Mỗi khi Ngài ôm lấy ta và tha thứ cho ta là Ngài quên hết quá khứ, chẳng còn nhớ gì nữa. Thiên Chúa lãng quên quá khứ lỗi lầm. Khi chúng ta phạm tội nhưng biết ăn năn và trở về với Thiên Chúa, Ngài sẽ chẳng bao giờ quở mắng hay trách phạt, vì Thiên Chúa cứu độ và tái đón nhận ta vào nhà với niềm vui và tiệc mừng. Chính Đức Giêsu, trong bài Tin Mừng hôm nay, đã nói: ‘Trên trời ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn’ (Lc 15, 7). Tôi muốn hỏi anh chị em một điều: Anh chị em có bao giờ nghĩ rằng mỗi khi chúng ta đi xưng tội là trên trời tràn ngập niềm vui và mở tiệc mừng hay không? Anh chị em có bao giờ nghĩ như thế chưa? Thật là đẹp biết bao!
Điều này mang lại cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao, vì với ân sủng của Thiên Chúa chúng ta có thể tiếp tục đứng dậy mỗi khi té ngã trước mọi tội lỗi dù tội đó trầm trọng đến mấy đi nữa. Không có ai là hết phương cứu chữa; chẳng có ai mà không được cứu độ! Bởi vì Thiên Chúa không bao giờ ngừng muốn những điều tốt đẹp cho ta, ngay cả khi ta phạm tội! Xin Đức Trinh Nữ Maria, Chốn Náu Nương cho những ai tội lỗi, làm nảy sinh trong tâm hồn chúng ta niềm xác tín giống như đã nảy sinh trong trái tim của người con hoang đàng: ‘Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: Thưa cha, con thật đắc tội với cha’ (Lc 15, 18). Bằng cách đó, chúng ta có thể làm vui lòng Thiên Chúa và niềm vui của Ngài sẽ trở thành niềm vui cũng như tiệc mừng của chúng ta.”
Tiếp đến, Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.
Sau Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói: “Tôi mời gọi anh chị em hãy cầu nguyện đặc biệt cho Gabon, đang trải qua những giây phút khủng hoảng chính trị trầm trọng. Tôi phó thác vào tay Thiên Chúa toàn năng các nạn nhân của những vụ đụng độ cũng như gia đình của họ. Tôi hiệp lời với các Giám mục của đất nước Phi châu mến yêu để mời gọi các bên chấm dứt mọi hình thức bạo lực và cùng nhau thăng tiến lợi ích chung. Tôi khuyến khích tất cả mọi người xây dựng hòa bình trên tinh thần tôn trọng luật pháp, trong đối thoại và tình huynh đệ.
Hôm nay tại Karaganda, ở Kazakhstan, Giáo hội đã tôn phong chân phước cho linh mục Ladislao Bukowinski. Ngài đã bị sát hại vì đức tin. Trong suốt cuộc đời, cha đã bày tỏ tình yêu dạt dào cho những người yếu đuối và nghèo khổ nhất. Chứng tá của cha là kết tinh của những công việc bác ái về tinh thần cũng như thể xác.”
Tiếp đến, Đức Thánh Cha gởi lời chào thân ái đến tất cả các tín hữu ở Roma và khách hành hương đến từ Italia cũng như các quốc gia khác.
Cuối cùng Đức Thánh Cha chúc tất cả mọi người ngày Chúa nhật tốt lành và Ngài cũng không quên xin mọi người cầu nguyện cho Ngài.
Vũ Đức Anh Phương SJ
Read more…