Kitô hữu mà lòng chai đá thì như kẻ mồ côi

08:30 | Thứ Tư, 20 tháng 4, 2016
Kitô hữu mà làm cho lòng mình chai đá và không chịu để được kéo đến gần Chúa Kitô, thì như những cô nhi không có cha. Đây là thông điệp của Đức Giáo hoàng Phanxicô trong bài giảng thánh lễ ban sáng ngày thứ ba 19-04, tại Nguyện đường Nhà trọ Thánh Marta.
 Casa Marta 160419
“Những người Do Thái lòng nghi hoặc, mỗi khi Chúa Giêsu mỗi khi Ngài làm phép lạ, giảng dạy trong đền thờ, hay chỉ cho con đường đến với Cha, thì họ đều chất vấn:
 ‘Ông định để chúng tôi chờ đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Kitô, thì nói thẳng đi.’
Câu hỏi này các kinh sư và Pharisiêu cứ lặp đi lặp lại theo nhiều cách khác nhau, câu hỏi từ những tấm lòng khép kín và đui mù trước đức tin. Như Chúa Giêsu đã nói trong bài Tin mừng ngày hôm nay, ‘các ông không tin, bởi các ông không thuộc đàn chiên của tôi.’ Ở trong đàn chiên của Chúa, là một ơn cần đến một tấm lòng mở ra.
‘Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, và không bao giờ bị diệt vong. Không một ai lấy được chiên khỏi tay tôi.’ Vậy những con chiên này đã học được cách theo Chúa Giêsu, và rồi tin nơi Chúa ư? Không, như trong Tin mừng theo thánh Gioan đã nói, ‘Cha tôi, Đấng ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả.’ Chính Cha ban chiên cho người mục tử. Chính Cha đưa lòng chúng ta đến với Chúa Giêsu.
Sự chai đá của các kinh sư và Pharisiêu, cứ tiếp diễn đến tận đồi Golgotha. Họ thấy những việc Chúa Giêsu làm, nhưng không chịu tin Ngài là Đấng Messiah. Ngay cả sau khi Chúa Phục Sinh, họ vẫn không tin, họ bảo những người lính gác đi phao tin các môn đệ đã đánh cắp thi thể Chúa. Ngay cả cả chứng tá của những người đã thấy Chúa Kitô Phục Sinh, cũng không chạm đến được lòng của những người không chấp nhận tin này. Và hậu quả là, họ như những kẻ mồ côi chối bỏ Cha mình vậy.
Các luật sỹ này mang một trái tim khép kín, họ nghĩ họ là chủ của bản thân mình, nhưng thật ra họ là kẻ mồ côi không có liên hệ gì với Cha. Họ nói về cha ông của họ, về Abraham và các tổ phụ, nhưng đó là những nhân vật xa xôi, còn trong lòng họ vẫn là kẻ mồ côi, bởi họ không chịu để mình được kéo đến với Cha.
Ngược lại, trong bài đọc một, nhiều người dân ngoại, ở Phoenicia, Cyprus và Antioch, khi được nghe các môn đệ giảng tin mừng, đã trở lại với đức tin. Họ là những người có trái tim mở ra với Thiên Chúa. Như Barnabas, người được phái đến Antioch để xác minh chuyện này, ông không khó chịu trước sự trở lại của dân ngoại, nhưng chấp thuận và để mình được Chúa Cha kéo đến với Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta làm môn đệ của ngài, nhưng để được như thế, chúng ta phải để Chúa Cha kéo mình đến với Chúa Giêsu. Chúng ta có thể thưa lên lời cầu nguyện khiêm nhượng này: ‘Lạy Cha, xin đưa con đến với Chúa Giêsu, giúp con biết Chúa Giêsu, và Cha sẽ sai Thần Khí đến mở lòng và dẫn dắt chúng con đến với Chúa Giêsu.’
Một Kitô hữu không để Chúa Cha dẫn dắt, thì như một kẻ mồ côi. Nhưng chúng ta biết mình có một CHA có thể dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu .”
J.B. Thái Hòa chuyển dịch từ Vatican Radio Eng
Read more…

SUY NIỆM CÁC NGÀY TRONG TUẦN 4 PHỤC SINH

16:37 | Thứ Hai, 18 tháng 4, 2016
THỨ HAI
“TA BIẾT CHÚNG VÀ CHÚNG THEO TA” (Ga 10, 1-10)
Xem lại CN 4 PS A.B.; hoặc Ga 10,11-18 năm A
Chuyện kể rằng: một du khách đến Palestin, gặp được người mục tử đang làm việc tại trại cừu. Người đó chỉ cho du khách thấy cảnh đồi núi và bày cừu đang tung tăng trên cánh đồng cỏ.
Phóng tầm nhìn, du khách hỏi: “Đó là trại cừu, kia là bấy cừu, đây là lối vào. Vậy còn cửa đâu?” Người mục tử hỏi lại: “Cửa hả? Chính tôi là cửa. Ban đem tôi nằm giữa lối đi này. Không một con cừu nào bước ra hay một con sói nào bước vào mà không phải qua xác tôi”. 
Trong cuộc đời của Đức Giêsu, một trong những phương pháp sư phạm của Ngài khi rao giảng Tin Mừng chính là phương pháp ẩn dụ. Tức là mượn hình ảnh của thiên nhiên, động vật… để nói lên một chân lý thuộc về Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay cho biết: Đức Giêsu dùng hình ảnh mục tử, đàn chiên và cửa chuồng chiên để nói lên mối tương quan giữa Ngài và dân Israel.
Mục tử là khái niệm rất quen thuộc của người Dothái; đàn chiên chính là gia sản của họ, nên ai cũng biết. Mục tử và đàn chiên cả hai đều sống du mục, nay đây mai đó, luôn tìm đến chỗ có đồng cỏ tươi, dòng suối mát để hạ trại.
Hôm nay, Đức Giêsu khẳng định Ngài là Mục Tử Nhân Lành, được Chúa Cha ban tặng cho nhân loại. Mục Tử Nhân Lành này sẵn lòng hy sinh tất cả vì đàn chiên. Ngài tự ví mình là“Cửa Chuồng Chiên”, tức là người canh phòng, bảo vệ chiên khỏi sói dữ tấn công. Vì thế, ai qua “Cửa” mà vào thì sẽ được sống.
Người Mục Tử Nhân Lành này sẵn sàng dùng mọi cách để giữ gìn chiên, ngay cả cái chết. Ngài yêu thương chiên bằng tình yêu mục tử, nên Ngài “biết” từng con chiên và từng con chiên “biết” Ngài. Vì thế, sự sống của chiên là của Ngài và sự sống của Ngài luôn dành cho chiên.
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta thuộc về Chúa và Chúa thuộc về ta. Chúa “biết” chúng ta và Ngài “biết” cách thấu đáo. Còn chúng ta, chúng ta có “biết” Ngài không, hay có “biết” nhưng “biết” cách vu vơ, lúc biết lúc không?
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nghiêm túc đặt lại câu hỏi ấy cho chính mình, ngõ hầu mỗi người làm mới lại mối tương quan với Thiên Chúa để được đi trong đường lối của Ngài. Đồng thời luôn sẵn sàng làm chứng về những gì mình “biết” về Thiên Chúa cho con người và cuộc sống hôm nay, ngang qua hành vi được biểu lộ nơi lòng mến và niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, xin Chúa ban cho chúng con được “biết” Chúa như chính Chúa đã “biết” chúng con. Amen.
THỨ BA
XIN ĐƯỢC Ở TRONG ĐÀN CHIÊN CỦA CHÚA (Ga10,22-30)
Cùng một lời nói được phát ra, có người nghe thấy, có người chẳng nghe; có người nghe đúng, có người nghe sai; có người nghe đủ, có người nghe thiếu…
Thực trạng đó rất đúng với bài Tin Mừng hôm nay. Thật vậy, những người Dothái hỏi Đức Giêsu: “Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết”.
Những người Dothái không biết Đức Giêsu là bởi vì họ đã không nhận ra Ngài. Họ bị thói kiêu ngạo che lấp tâm trí, nên đứng trước biết bao nhiêu phép lạ, lời giảng dạy và nhiều mạc khải khác, họ vẫn bị mờ tối lương tâm nên không “biết” Đức Giêsu. Vì thế, khi được hỏi, Đức Giêsu đã khẳng khái trả lời cho họ biết nguyên nhân tại sao, đó là: “Vì họ không thuộc về đàn chiên của Ngài”. Bởi vì: “Chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi”Khi đã “biết” và nghe theo tiếng Chủ chiên là chính Đức Giêsu, thì sẽ được sự sống đời đời, không bao giờ diệt vong. Nhất là được đảm bảo khỏi sói dữ, quỷ thần ám hại, vì được ở trong vòng tay của Vị Mục Tử Nhân Lành.
Nếu Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, thì Giáo Hội là đàn chiên của Chúa. Nơi đàn chiên này, luôn được Vị Mục Tử Nhân Lành chăm sóc, giữ gìn. Thế nên, dù sự dữ có mạnh đến đâu, quyền lực của ma quỷ có lớn lao cỡ nào, thì Giáo Hội Chúa vẫn tồn tại nhờ vào sức mạnh, uy quyền của Chủ Chăn.
Mong sao, mỗi người chúng ta luôn tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành, đồng thời hãy biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, để xứng đáng trở thành con chiên ngoan hiền trong đàn chiên của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành, xin Chúa ban cho chúng con luôn biết dõi theo Chúa dưới cây gậy mục tử là chính Lời Chúa, để chúng con được sống trong đàn chiên của Chúa đến trọn đời. Amen.
THỨ TƯ
NHỜ ÁNH SÁNG, CON NGƯỜI ĐƯỢC SỐNG (Ga 12,44-50)
Trong cuộc sống, ánh sáng là thứ cần thiết đến độ không thể có gì thay thế. Ánh sáng làm cho con người và vạn vật có được sự sống và triển nở. Vì thế, không có ánh sáng, thì cho dù một sự sống sơ đẳng cũng không thể sống nổi như cỏ cây…thảo mộc…
Đây là sự cần thiết của ánh sáng dưới góc độ tự nhiên, còn với góc độ siêu nhiên, ánh sáng còn cần hơn gấp bội. Nếu không có ánh sáng siêu nhiên, thì con người sẽ lầm lũi bước đi trong đêm tối và có nguy cơ bị tận diệt sự sống đời đời. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì ánh sáng siêu nhiên chính là biểu tượng chỉ về Thiên Chúa  (x. Xh 19,18). Đấng đã dùng cột lửa để soi sáng và dẫn dân Dothái về Đất Hứa (x. Xh 13,21t). Như thế, khi dân thấy ánh sáng là an tâm (x. Tv 4,7.31; Cn 16,15). Ánh sáng còn là dấu chỉ về  giới luật của Thiên Chúa (x. Cn 6,23). Người dẫn dân đi trong đường lối của Người (x. Tv 119,105). Người làm tội ác loạng choạng trong tối tăm (x. Is 59,9).
Hôm nay, chính Đức Giêsu mạc khải rõ nét chân tính của Thiên Chúa, và Ngài là Đấng Bởi Thiên Chúa mà đến, nên khẳng định: “Ta là ánh sáng đến trong thế gian” (Ga 12,46).
Như vậy, Ánh Sáng là biểu trưng cho hạnh phúc viên mãn trong nguồn ơn cứu chuộc và được sự sống đời đời. Đi ngược lại với Ánh Sáng chính là ở trong bóng tối và sẽ đi về chỗ diệt vong (x. Mt 22,13). Cho nên có Ánh Sáng là có sự sống, có ơn cứu chuộc.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chạy đến với Đức Giêsu là Ánh Sáng thật để được hạnh phúc như chính Ngài đã nói: “Ta là ánh sáng đến trong thế gian để ai tin Ta không đi trong tăm tối”. Vì thế, ngay trong giây phút này, chúng ta hãy sống những điều thuộc về Ánh Sáng như thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng” (Ep 5,8). 
Không những chúng ta thuộc về Ánh Sáng, nhưng chúng ta còn phải trở nên ánh sáng cho trần gian, để soi sáng cho người khác đến nguồn Ánh Sáng là chính Đức Giêsu, để họ cũng được sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được đi trong đường lối của Chúa là Ánh Sáng. Xin cho chúng con được tránh xa bóng tối là kẻ thù của Ánh Sáng. Và xin cho chúng con được trở nên ánh sáng soi đường cho người khác bằng đời sống tốt lành của chúng con. Amen.
THỨ NĂM
GIỚI THIỆU CHÚA CÁCH TRUNG THỰC (Ga 13, 16 – 20)
Trong nghề thuốc hay võ thuật, những thần y hay tổ sư thường lưu nghề bí truyền cho một ai đó, để đến khi họ có khuất núi thì vẫn còn có người lưu danh hậu thế nhờ lưu truyền lại gia bảo của cha ông.
Với Đức Giêsu cũng vậy! Sau hành trình loan báo Tin Mừng, trước khi về trời, Ngài cũng truyền cho các môn sinh của mình: “Hãy đi loan báo Tin Mừng khắp thế gian”. Đây chính là lệnh truyền, gia bảo cho Giáo Hội tới muôn đời.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu như muốn khẳng định rằng: nếu là người môn đệ chân chính, sẽ nói lời của chính Thiên Chúa, và như thế thì: “Ai đón nhận kẻ Thầy sai là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy“. 
Muốn làm được điều đó để cho mọi người nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, chúng ta phải mặc lấy chính tâm tình của Đức Giêsu, trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài khi phục vụ con người cách vô vị lợi trong sự khiêm tốn…
Có thế chúng ta mới lưu lại cho người đương thời và hậu thế gia tài quý giá là chính Đức Giêsu, nhờ đó, con người hôm nay và mai sau mới nhận ra Đức Giêsu là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống ngang qua đời sống và hành vi của chính chúng ta.
Mong sao mỗi người chúng ta biết được điều đó để thi hành, ngõ hầu trở thành người có phúc như Đức Giêsu đã nói: “Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em!”. Ngược lại, chúng ta đừng như Giuđa, kẻ phản thầy mà hôm nay, Đức Giêsu đã tiên báo một cách đau đớn: “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con”
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết sống trung thành với Chúa và sứ điệp của Chúa. Xin cho chúng con biết loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống của chính mình, để cuộc đời và sứ vụ của chúng con chính là hiện thân cách sống động như chính Chúa đang trực tiếp hành động. Amen.
THỨ SÁU
“ĐỪNG XAO XUYẾN” (Ga 14, 1-6)
Đứng trước cái chết của người thân, ai trong chúng ta lại không khỏi xao xuyến và lòng lại không quặn đau đến tột cùng vì sắp phải chứng kiến sự chia lìa vĩnh viễn!
Tin Mừng hôm nay trong một văn mạch hết sức ấn tượng, đó là sự đau buồn của các môn đệ trước sự ra đi của Đức Giêsu. Thật vậy, ba năm tình nghĩa thày trò, không xao xuyến sao được khi sẽ mất đi điểm tựa! Tuy nhiên, thấu hiểu được tâm trạng của các ông, nên tình thầy trò thân tín, Đức Giêsu đã tâm huyết chia sẻ với các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Thầy đi dọn chỗ cho anh em… để Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó”. Lời tâm huyết này được diễn ra trong bữa Tiệc Ly, một bữa ăn cuối cùng của tình thầy trò. Khi nói những lời ấy, Đức Giêsu trao cho các ông chìa khóa để thêm vững tin, đó là: để khỏi bị xao xuyến, thì: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”.Tin vào Thiên Chúa, vì Người hằng thương yêu chúng ta. Tin vào Đức Giêsu vì Ngài đi để chuẩn bị cho chúng ta như Ngài đã phán: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em […] và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy vững tin vào Chúa trước mọi thử thách trông gai. Không được ủ rũ khóc than. Nhưng là chuẩn bị cho ngày hội ngộ với Đức Giêsu bằng việc sống những điều Ngài dạy. Hãy khước từ mọi sự bất chính, thêm niềm tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu và trung thành đi trên chính con đường của Ngài để được sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng con phải vững tin vào Chúa. Sống những gì Chúa dạy để được sự sống đời đời. Xin Chúa ban cho chúng con được sống xứng đáng với ơn gọi cao quý, đó là được làm con Chúa. Xin cho chúng con được sống bên Chúa khi đã hoàn thành sứ vụ trên trần gian, nơi mà chính Chúa ra đi trước để dọn chỗ cho chúng con. Amen.
THỨ BẢY
KẾT HỢP VỚI CHÚA – LÀM ĐƯỢC MỌI SỰ
(Ga 14, 7-14)
Chúng ta nghe nói đây đó nhiều vị thánh đã làm phép lạ cách phi thường. Có nhiều đấng làm phép lạ ngay khi còn sống, chẳng hạn như thánh Giêrađô, Vinh Sơn, Mattinô…
Đứng trước những phép lạ đó, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng và ngạc nhiên! Tuy nhiên, chìa khóa để mở ra sự bất ngờ này, chính là sự kết hiệp mật thiết sâu xa giữa các thánh và Đức Giêsu. Vì thế, việc phi thường các thánh làm thực ra không phải, mà là Chúa đang hành động nơi các ngài.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói rất rõ về sự kết hiệp này. Câu chuyện được khởi đi từ sự ngỡ ngàng và ngạc nhiên của Philípphê khi ông cất lên hỏi Đức Giêsu về một sự kiện có tính siêu nhiên: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Đức Giêsu đã trách nhẹ ông, vì Ngài đã ở với các ông bấy lâu, giảng dạy nhiều điều, đã làm những dấu lạ điềm thiêng, cũng như mạc khải cho ông biết Ngài từ Chúa Cha mà đến, và làm những việc của Chúa Cha, vậy thì tại sao ông và các môn đệ vẫn không tin??? Thật là đáng buồn! Vì thế, Đức Giêsu nói với ông Philípphê rằng: “Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm”.
Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn dạy cho các Tông đồ một bài học về sự kết hiệp. Không kết hiệp với Ngài thì không thể làm được việc gì. Nhưng nếu kết hiệp với Ngài thì sẽ làm được mọi chuyện như chính Ngài đã làm và có khi còn hơn thế nữa… Khuôn mẫu của sự kết hợp chính là giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha. Người môn đệ khi ra đi loan báo Tin Mừng cũng vậy! Phải kết hợp chặt chẽ với Chúa như cành liền cây. Có thế, chúng ta mới trở thành người mang Tin Mừng cho anh chị em mình. Không có điều này, chúng ta sẽ chỉ làm những chuyện mà chúng ta thích chứ không phải là Thiên Chúa muốn! Và theo lẽ đương nhiên, chúng ta sẽ chẳng làm được việc gì vì chúng ta đã không nhân danh Đức Giêsu mà xin với Thiên Chúa. Chính vì điều này, mà chúng ta thấy nhiều sứ giả của Chúa bị thất bại, gãy cánh…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống sự hiệp thông chặt chẽ với Chúa để chúng con trở thành chứng nhân chân thật nhờ biết gắn bó với Ngài. Amen.
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Read more…

Sứ Điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi Của Đức Giáo Hoàng Phanxicô – Năm 2016

14:51 | Thứ Bảy, 16 tháng 4, 2016
Anh chị em thân mến,
Tôi đang rất hi vọng trong suốt Năm Thánh Ngoại thường Lòng Thương Xót này, tất cả những ai đã chịu Phép Rửa đều trải nghiệm được niềm vui thuộc về Giáo Hội và tái khám phá ơn gọi Kitô hữu, là ơn gọi được sinh ra trong Dân Chúa, và đây là ân ban của lòng thương xót. Giáo hội là nhà của lòng thương xót và là “mảnh đất” để ơn gọi đâm rễ, phát triển và trổ sinh hoa trái.
Vì lý do này, nhân dịp 53 năm, ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi, tôi mời gọi tất cả các tín hữu suy ngẫm về cộng đoàn tông đồ, và cám ơn vai trò của cộng đoàn này trong hành trình ơn gọi của mỗi người. Trong Ân Xá của Năm thánh Ngoại thường Lòng Thương Xót, tôi tưởng nhớ lại lời của Thánh Beda Khả kính, mô tả ơn gọi của thánh Matthêu: “Miserando atque eligendo” [Xót thương và kêu gọi]. Hành động đầy lòng thương xót của Thiên Chúa tha thứ tội lỗi chúng ta và dẫn chúng ta bước vào đời sống mới hình thành trong lời mời gọi làm môn đệ và thực thi sứ vụ. Mỗi ơn gọi trong Giáo hội bắt nguồn từ khóe nhìn đầy thương xót của Chúa Giêsu. Đối thoại và ơn gọi là hai mặt của cùng vấn đề, và tiếp tục duy trì sự hiệp thông trong suốt đời sống tông đồ.
Trong Tông huấn Loan Báo Tin Mừng, chân phúc Phaolô VI mô tả những bước khác nhau trong việc Phúc Âm hóa. Một trong những bước này là thuộc về cộng đoàn Kitô hữu, là cộng đoàn mà chúng ta nhận được nhân chứng đức tin đầu tiên và công bố lòng thương xót của Thiên Chúa.[1] Áp dụng vào cộng đoàn Kitô hữu mang đến sự phong phú trong đời sống Giáo hội, đặc biệt là các bí tích. Thực vậy, Hội Thánh không chỉ là một nơi chúng ta tin, nhưng còn là một đối tượng của đức tin, vì lý do này mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin Hội Thánh”.
Lời mời gọi của Thiên Chúa đến với chúng ta qua các phương tiện của hòa giải là cộng đoàn. Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên chi thể của Hội Thánh, và sau khi chúng ta đạt đến độ trưởng thành nhất định, Ngài ban cho chúng ta một ơn gọi đặc biệt. Hành trình ơn gọi được thực hiện cùng với các anh chị em, những người mà Chúa lôi kéo đến với chúng ta: Đó là cùng một ơn kêu gọi. Sự năng động của Giáo Hội trong lời kêu gọi là liều thuốc giải cho sự vô cảm và chủ nghĩa cá nhân. Nó thiết lập sự hiệp thông trong đó sự vô cảm bị tình yêu thương đánh bại, bởi vì nó đòi hỏi chúng ta vượt qua khỏi bản thân và đặt cuộc sống chúng ta vào kế hoạch của Thiên Chúa, ôm lấy hoàn cảnh lịch sử của dân thánh Người.
Trong ngày đặc biệt cầu nguyện cho ơn gọi này, tôi khẩn thiết tất cả các tín hữu đảm nhận trách nhiệm quan tâm và biện phân ơn gọi. Khi các tông đồ tìm kiếm người thay thế cho Giuda Iscariot, Thánh Phêrô đưa ra 120 anh em (x. Cv 1:15) để chọn ra 7 phó tế, một nhóm các môn đệ được tập hợp (x. 6:2). Thánh Phaolô đưa cho Titô tiêu chí cho việc chọn lựa tông đồ (x. Tt 1:5-9). Ngày nay vẫn vậy, cộng đồng Kitô hữu luôn hiện diện trong việc biện phân ơn gọi, trong việc đào tạo và sự bền đỗ của các ơn gọi.[2]
Ơn gọi được nảy sinh ngay trong lòng Giáo Hội. Từ khoảnh khắc một ơn gọi bắt đầu trở nên rõ ràng, ơn gọi ấy cần phải có “cảm thức” về Giáo hội. Không ai được kêu gọi để dành riêng cho một vùng riêng biệt, hay cho một nhóm hoặc một phong trào nhưng là dành cho Giáo hội và thế giới. “Một dấu hiệu chắc chắn về đặc sủng đích thực là đặc tính giáo hội của nó, khả năng nó kết hợp hài hòa với đời sống dân thánh trung thành của Thiên Chúa vì lợi ích chung của mọi người”.[3] Trong sự đáp trả lời mời gọi này, người trẻ nhìn thấy chân trời giáo hội mở rộng; họ có thể xem xét những đặc sủng khác nhau và thực hiện nhận thức khách quan hơn. Theo cách này, cộng đoàn trở thành nhà và gia đình cho ơn gọi sinh ra. Các ứng viên suy niệm về cộng đoàn hoán cải như là một yếu tố cần thiết cho tương lai của họ. Họ học để hiểu và yêu thương anh chị em, những người theo những đường hướng khác họ; và chính những điều này làm tăng thêm sức mạnh mỗi người trong sự hiệp thông mà họ chia sẻ.
Ơn gọi lớn lên trong lòng Giáo hội. Trong quá trình đào tạo, cá ứng viên với những ơn gọi khác nhau cần học hỏi kiến thức về cộng đoàn giáo hội, vượt qua những giới hạn lúc đầu. Để khi kết thúc, họ nên cùng nhau thực hiện những trải nghiệm tông đồ với những thành viên khác của cộng đoàn, chẳng hạn như: cùng theo một khóa giáo lý, trao đổi các thông điệp Giáo hội, gặp gỡ liên hội dòng, chia sẻ trải nghiệm việc truyền giáo tại các vùng ngoại vi, chia sẻ đời sống tu viện, khám phá nguy cơ đưa đến cám dỗ; liên hệ với các vị thừa sai để đào sâu hơn về sứ vụ đến với muôn dân; và trong cộng đoàn các linh mục giáo phận, để đi sâu vào kinh nghiệm đời sống mục vụ giáo xứ và giáo phận. Đối với những ai đã sẵn sàng cho việc đào tạo, cộng đoàn giáo hội luôn là môi trường đào tạo cơ bản.
Giáo hội công nhận ơn kêu gọi. Sau khi cam kết, hành trình ơn gọi của chúng ta trong Giáo hội không phải đã hết, nhưng tiếp tục trong sự sẵn sàng phục vụ, bền chì và tiếp tục tiến trình đào tạo. Những người sống đời thánh hiến sẵn sàng phục vụ Giáo hội khi cần. Sứ mệnh của Phaolô và Barnaba là ví dụ của việc sẵn sàng phục vụ này. Được Chúa Thánh Thần và cộng đồng Antioch (x. Cv 13,1-4) sai đi làm sứ vụ, họ quay trở lại và mô tả những gì Thiên Chúa đã làm thông qua họ (x. 14:27). Những nhà truyền giáo được cộng đoàn Kitô hữu đồng hành và công nhận, và cộng đoàn này vẫn luôn là một điểm quan trọng như mảnh đất quê hương hữu hình bảo vệ tất cả những ai trên hành trình hướng đến cuộc sống vĩnh cửu.
Trong số những người hoạt động mục vụ, các linh mục đặc biệt quan trọng. Trong sứ vụ, họ sống trọn vẹn Lời của Chúa Giêsu, “Ta là cổng chuồng chiên […] Ta là mục tử nhân lành” (Ga 10:7,11). Chăm sóc mục vụ ơn gọi là một phần căn bản trong sứ vụ của họ. Linh mục đồng hành với những ai có ý muốn theo ơn gọi, cũng như những ai đã tận hiến cuộc đời phục vụ Thiên Chúa và cộng đoàn.
Tất cả các tín hữu được mời gọi đánh giá cao sự năng động của ơn gọi để các cộng đoàn tín hữu có thể trở nên, sau gương mẫu của Rất Thánh Đồng Trinh Maria, như cung lòng người mẹ chào đón ân ban của Chúa Thánh Thần (x. Lc 1:35-38). Tình mẫu tử của Giáo hội thể hiện trong lời cầu nguyện liên lỉ cho ơn gọi và công cuộc giáo dục, đồng hành với tất cả những ai nhận thức ra được ơn kêu gọi của Chúa. Tình mẫu tử này cũng được thể hiện qua việc lựa chọn kỹ càng những ứng viên cho chức thánh và cho đời sống thánh hiến. Cuối cùng, Giáo hội là mẹ của ơn gọi trong việc tiếp tục nâng đỡ những ai đã tân hiến đời mình để phục vụ người khác.
Chúng ta cầu xin Chúa ban cho tất cả những ai đang trong hành trình ơn gọi có một cảm thức sâu sắc mình thuộc về Giáo hội; và xin Chúa Thánh Thần tăng thêm sức mạnh cho các Mục tử, và tất cả các tín hữu, một cảm nhận sâu hơn về sự hiệp thông, sự biện phân và tình phụ mẫu thiêng liêng.
Lạy Cha của lòng thương xót, Người đã trao ban Con Một của Người là Đấng Cứu Độ và tăng thêm sức mạnh Thánh Thần cho chúng con, ban cho chúng con những cộng đoàn Kitô hữu sống động, sốt sắng và vui tươi trong tình huynh đệ, và nuôi dưỡng người trẻ ước muốn thánh hiến bản thân cho Người và cho công cuộc Phúc Âm hóa. Xin gìn giữ và duy trì những cộng đoàn này trong lời cam kết hiến dâng ơn gọi thích hợp và những phương cách tiến tới trong đời sống thánh hiến của mỗi người. Xin ban cho chúng con sự khộn ngoan cần thiết cho ơn gọi để trong mọi sự, lòng nhân từ tuyệt hảo của Người được tỏa sáng. Xin Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu làm trung gian hòa giải cho mỗi cộng đoàn Kitô hữu nhờ đó được trổ sinh hoa trái Thánh Thần, là nguồn ơn gọi thực sự cho việc phục vụ dân thánh Chúa.
Ban hành tại Vatican, cạnh Đền Thờ Thánh Phêrô,
Ngày 29 tháng 11 năm 2015, Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng.
+ FRANCIS
Giáo Hoàng
Read more…

Thiên Chúa thương xót người “di dân”

06:44 | Thứ Ba, 12 tháng 4, 2016
13
Di dân là một trong những vấn nạn mà các nhà chức trách khối Âu Châu đang phải đương đầu. Người ta cảm thấy bất ổn, bất an khi phải tiếp nhận người di dân. Trong khi đó, những người tị nạn sống trong nỗi thấp thỏm đợi chờ được tiếp nhận. Họ dễ bị tổn thương và thất vọng khi bị chối từ. Di dân là vấn nạn của muôn thuở và Thánh Kinh cũng kể lại cho chúng một kinh nghiệm di dân của cả một dân tộc : biến cố Xuất hành. Phận ngoại kiều bị rẻ rúng khinh khi, với bao tủi nhục và bế tắc về tương lai… những điều đó Israel đã trải qua, đã niếm mùi đắng cay, khổ đau nghiệt ngã của thân phận “di dân”. Kinh nghiệm này hằn in trong ký ức của cả dân tộc thuở họ trú ngụ bên Ai Cập, một thời mà cả dân tộc Israel trở thành nô lệ nơi đất khách quê người – một thời không quên. Thế nhưng đó cũng là giai đoạn mà Israel có một kinh nghiệm còn vĩ đại hơn kinh nghiệm về nỗi nhục của kiếp nô lệ : kinh nghiệm về một Thiên Chúa giải phóng, một Thiên Chúa yêu thương qua biến cố Xuất hành. Chẳng vậy mà,thánh vịnh gia, qua thánh vịnh 136, đã cất lên bài ca tạ ơn Thiên Chúa với điệp khúc “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Trong giới hạn cho phép, chúng ta cùng nhìn lại giai đoạn khởi đầu của biến cố Xuất hành, được ghi lại trong những trang đầu của sách Xuất Hành, Xh 1-3, để hiểu phần nào tình thương của Thiên Chúa đối với dân Người, những người tha phương bị áp bức.
2.600-người-chết-khi-di-cư-vào-châu-Âu
1. Xuất hành, biến cố in dấu trên cả dân tộc
Hằng năm, con cái Israel hành hương lên Đền thờ Jerusalem vào ba dịp lễ lớn theo luật định. Một trong ba lễ đó là lễ Vượt Qua, kỉ niệm biến cố Xuất hành, một biến cố nằm trên một bình diện riêng, khác hẳn với các biến cố khác: biến cố thành lập dân Chúa. Lễ này được cử hành long trọng với nghi thức giết Chiên Vượt Qua để mừng kính Đức Chúa, Đấng đã đưa họ ra khỏi nhà nô lệ Ai Cập (Xh 23,17; D0nl 16,16). Với biến cố trọng đại này, Israel có kinh nghiệm về Thiên Chúa mà cha ông họ thờ, Thiên Chúa của các tổ phụ, là Đấng giải phóng, đã can thiệp vào lịch sử Israle, và cũng chính Người Đấng tạo dựng nên đất trời (x. Tv 136).
Thế mà, xét về mặt sử tính, các nhà phê bình lịch sử đã có lý khi đặt vần đề: Xuất hành thực sự đã xảy ra thế nào ? Vì rằng một số đoạn trong sách Xuất Hành mô tả cuộc ra khỏi Ai cập như một cuộc trục xuất, một số đoạn khác lại coi đó là một cuộc trốn chạy. Và các nhà chuyên môn nghĩ có lẽ có hai cuộc Xuất hành mà sau đó Israel đã hoà lẫn làm một trong ký ức của dân tộc. Việc qua Biển Đỏ cũng có hai truyền thống khác nhau, một truyền thống nói về việc “chẻ đôi” lòng biển, trong khi đó truyền thồng khác lại nói là gió làm cạn khô nước biển. Cũng vậy, núi thánh được nói đến trong sách Xuất Hành là núi Sinai, cũng được gọi là Horeb. Còn việc xác định núi này ở đâu thì lại có nhiều giả thiết khác nhau…Những ghi nhận trên của các nhà chuyên môn có thể làm chúng ta bối rối vì quá ít điều chắc chắn…
Tuy nhiên một điều rất thật, đó là Xuất hành đã in dấu đậm nét trong ký ức con cái Israel và được thể hiện một cách cụ thể qua đời sống đức tin của cả dân tộc. Không những không mặc cảm cũng chẳng che giấu quá khứ đầy tủi nhục với thân phận nô lệ của mình, Israel còn truyền lại cho nhau, thế hệ này đến thế kia, về xuất thân của dân tộc mình là một ngoại kiều cư ngụ bên Ai Cập, bị ngược đãi ức hiếp. Chẳng hạn Đnl 26,1-11 là một bằng chứng. Đây là một đoạn nói về nghi thức dâng của lễ đầu mùa với lời nguyện rất hay, thường được gọi là lời tuyến tín của Israel, theo đó con cái Israel được dạy để thưa với Thiên Chúa như sau: “ Ông tổ tôi là người A-ram phiêu bạt, đã xuống Ai-cập và trú ngụ tại đó… Người Ai-cập đã ngược đãi, hành hạ chúng tôi. Bấy giờ chúng tôi đã kêu cầu lên cùng Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông chúng tôi; Người đã nghe tiếng chúng tôi….”. Sở dĩ con cái Israel không mặc cảm về quá khứ tủi nhục của thời nô lệ của mình là vì kinh nghiệm nô lệ của họ gắn liền với kinh nghiệm về một Thiên Chúa tình yêu đầy quyền năng đã ra tay giải thoát dân Người.
2. Từ tha phương đến vong thân (Xh 1)
Vì một nạn đói lớn hoành hành, con cái Israel bỏ đất Canaan đến định cư tại Ai Cập. Dưới bóng của Giuse, đang làm tể tướng triều đình Pharaon lúc bấy giờ, con cái Israel mãn nguyện với cuộc di dân này, họ có cuộc sống sung túc, bình an. Nhưng tình thế thay đổi khôn lường sau khi Giuse, người bảo trợ của họ, qua đời; lại nữa, một vua mới lên ngôi trị vì Ai Cập. Vua này không “biết” đến Giuse, nghĩa là không nhớ gì đến công lao cũng chẳng biết ơn về những gì mà ông Giuse đã làm cho Ai Cập (Xh 1,6-8). Từ đây Israel nếm chịu sự cay đắng của thân phận nô lệ tôi đòi. Sách Xuất Hành ghi lại như sau: “Người Ai-cập cưỡng bức con cái Israel lao động cực nhọc. Chúng làm cho đời sống họ ra cay đắng vì phải lao động cực nhọc: phải trộn hồ làm gạch, phải làm đủ thứ công việc đồng áng; tóm lại, tất cả những việc lao động cực nhọc, chúng đều cưỡng bách họ làm” (Xh 1,13-14). Nguyên do mà Pharaon tìm cách hành hạ con cái Israel là vìông cảm thấy bị de dọa trước sự hùng mạnh đông đúc của con cái Israel. Bản văn lặp lại nhiều lần các từ như “đông đúc”, “hùng mạnh”, “lan tràn” nhằm nhấn mạnh đến sự lớn mạnh của con cái Israel. Thật nghịch lí, Pharaon càng tìm cách hành hạ, thì Israel càng trở nên đông đúc.
Sự lớn mạnh này của Israel gợi nhớ lời hứa của Thiên Chúa với tổ phụ Abraham là làm cho dòng dõi ông nên đông đúc như sao trời cát biển (St 15,5). Tuy nhiên lời hứa của Thiên Chúa mới thành tựu một phần. Vì rằng Thiên Chúa không chỉ hứa ban cho Abraham có dòng dõi đông đúc mà còn hứa ban đất Canaan làm sản nghiệp riêng (St 15,18-20). Nay lời hứa về dân đã thành tựu, nhưng mãnh đất bao khát khao mong chờ thì vẫn còn trong lời hứa. Đây là vấn đề: vì phải sống trên xứ sở của người khác chứ không phải trên đất của mình, Israel chỉ là kẻ ngoại kiều, sống phận “di dân”. Họ bị ức hiếp, ngược đãi, chịu lầm than tôi mọi. Từ di dân, họ trở thành nô lệ, từ tha phương trở thành vong thân.
3. Xuất hành, kinh nghiệm về một Thiên Chúa yêu thương, trung tín : (Xh 2,23-25)
“Sau nhưng năm dài ấy…” (Xh 2,23) câu dạo đầu này đưa người đọc vào sự cảm thông với cái dài dăng dẳng của những năm tháng triền miên trong tủi nhục, khổ đau của con cái Israel. Tác giả có vẻ không bận tâm nhiều đến số năm mà Israel làm nô lệ Ai Cập cho bằng nhấn mạnh tâm trạng của người chịu đựng : thời gian chịu đau khổ dường như vô tận, không đểm nổi, chỉ biết nó dài, dài lắm, dài đến ê chề thất vọng. Người ta có thể nghĩ là Thiên Chúa đã quên dân Người thật rồi. Tuy nhiên câu dạo đầu này cũng mở ra một thông tin hết sức quan trọng liên quan đến sự sống còn của con cái Israel, sách Thánh ghi : “Sau những năm dài ấy…. Thiên Chúa đã nghe tiếng họ than van và Thiên Chúa đã nhớ lại giao ước của Người với các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp….” (Xh 2,23-25). “Thiên Chúa đã nghe…” và “Thiên Chúa nhớ lại giao ước…” nghĩa là Thiên Chúa đã sẵn sàng để ra tay hành động vì dân Người và không trì hoãn nữa. Thời đã điểm.
Trong Tv 136, thuật ngữ hesed (חֶ֫סֶד) được dùng suốt thánh vịnh qua điệp khúc « muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương ». Hesed là một thuật ngữ khá quan trọng thường được dùng để nói về tình yêu của Thiên Chúa. Khó tìm được từ tương đương để dịch từ này. Vì rằng nó vừa mang nghĩa lòng tốt, ân huệ, yêu thương đồng thời lại bao hàm nghĩa trung thành, trung tín. Từ này nói lên mối liên kết giữa hai cá nhân, và khi hai cá nhân liên kết với nhau, họ không chỉ muốn điều tốt cho nhau mà còn tin tưởng và trung tín với nhau. Trong khi Tv 136, với từ hesed, nhìn thấy trong mỗi hành động của Thiên Chúa trong biến cố Xuất hành là hành động yêu thương (x. Tv 136,10-22), thì Xh 1 – 3 mà chúng ta đang bàn đến không hề có thuật ngữ hesed.Thế nhưng, nếu tìm hiểu bản văn thì sẽ thấy ý nghĩa của hesed nổi bật trong Xh 2,23-25 qua kiểu nói: “Thiên Chúa đã nghe tiếng họ kêu van và Thiên Chúa nhớ lại giao ước của Người với các tổ phụ Ap-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp”. Thật vậy, khi nói Thiên Chúa đã nghe tiếng họ kêu van, cho thấy Thiên Chúa xót thương dân Người, Người chạnh lòng vì họ khốn khổ, đó là hesed. Riêng về cụm từ “và Thiên Chúa nhớ lại giao ước của Người với các tổ phụ Ap-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp” chính là lời tuyên xưng về lòng trung tín của Thiên Chúa, mà trung tín là hesed. Vậy khi nói Thiên Chúa đã nghe tiếng họ than van và Người nhớ lại giao ước của Người với các tổ phụ, đó chính là lời ca khen về lòng thương xótvà sự trung tín của Thiên Chúa đối với con cái Israel. Nó đồng nghĩa với lời tạ ơn trong Tv 136: “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương với con cái Israel vì Người đã nghe, đã thấy và đã biết đến nỗi thống khổ của dân Người đang làm tôi người Ai Cập.
4. Xuất hành, kinh nghiệm về một Thiên Chúa giải phóng (Xh 3,7-10)
Để giải thoát Israel ra khỏi nhà nô lệ Ai Cập, Thiên Chúa tìm chọn một người và Môsê đã để mình bị “dụ” bởi quang cảnh ngoạn mục và hùng vĩ của bụi gai bốc cháy. Người nói với ông Môsê là Người đã thấy, đã nghe và đã biết các nỗi khổ của con cái Israel (Xh 3,7. 9). “Thấy”, “nghe” và “biết” liên quan đến thị giác, thính giác và trí thức – theo kiểu nói nhân hình hóa – là cả con người của Thiên Chúa từ giác quan đến tri thức đều hướng về con cái Israel. Người thấu suốt nổi cơ cực tủi nhục của họ. Trong đoạn Xh 3,7-10, từ Ai Cập, được nhắc lại nhiều lần, xuất hiện như một nơi làm chết nghẹt sự sống của con cái Israel, là mảnh đất nô lệ đối với dân Người. Nhất quyết là họ sẽ phải được đưa ra khỏi mảnh đất chết chóc này.Thiên Chúa là người giải thoát họ chứ không ai khác, Người sẽ “xuống” để đưa họ ra khỏi Ai Cập. Những người khác, Môsê hoặc Josua – người sẽ dẫn dân qua sông Jourdain và vào Đất Hứa,chỉ là những người thừa hành lệnh của Thiên Chúa. Niềm tin Israel là thế, không ai ngoài Thiên Chúa và chỉ mình Người là Đấng cứu độ duy nhất. Cũng vậy, thời lưu đày Babylon, khi Cyrus vua Ba Tư, người đã chấm dứt năm mươi năm lưu đày của người Do Thái và cho dân này hồi hương, thì đối với Israel, đó là sự can thiệp của Thiên Chúa (Tv 126; Is 43,1-7), còn Cyrus là khí cụ của Thiên Chúa, là người Thiên Chúa xức dầu (Is 45,1-7). Chính Thiên Chúa là Đấng giải phóng Israel khỏi tay người Ai Cập. Thế nhưng đưa khỏi Ai Cập chưa phải là đích điểm của công cuộc giải phóng mà Thiên Chúa thực hiện cho con cái Israel. Mục đích của Xuất hành là để đưa Dân vào Đất Hứa, đất chảy tràn sữa, là xứ sở của người Canaan, Khiết, Emori… (Xh 3,8).
Có lẽ độc giả sẽ thắc mắc, làm sao Thiên Chúa lại có thể lấy đất của các dân nước khác để ban cho dân Người làm sản nghiệp riêng ! Nó cùng một dạng với câu hỏi làm sao vì tội của Pharaon mà Thiên Chúa nhân lành lại có thể giết các con đầu lòng Ai Cập, và cùng với những câu hỏi tương tự khác. Thú thật khó có thể tìm thấy cách giải thích làm thỏa mãn não trạng của chúng ta thời nay, nhưng đó là đề tài hấp dẫn. Chúng ta sẽ bàn đến vào một dịp khác. Bây giờ chúng ta cùng suy nghĩ về tiếng than van của con cái Israel thấu đến Thiên Chúa. Trong khi Đnl 26,1-11 nói rõ là họ kêu cầu với Thiên Chúa: “Người Ai-cập đã ngược đã, hành hạ chúng tôi và đặt ách nô lệ trên vai chúng tôi. Bấy giờ chúng tôi đã kêu lên cùng Đức Chúa…” (Đnl 26,6-7), thì Xh 2,23-24 cũng như Xh 3,7-10 không nói rõ là con cái Israel kêu lên cùng Thiên Chúa mà chỉ nói là tiếng ta thán và tiếng họ kêu từ cảnh nô lệ đã thấu tới Thiên Chúa, và Thiên Chúa đã nghe tiếng họ than van. Như vậy tiếng kêu than của người đau khổ, dù không kêu lên Thiên Chúa, thì Thiên Chúa vẫn coi như là lời cầu xin chăng ? Thật ra điều này không lạ lẫm gì trong Thánh Kinh, sách Sáng Thế đã ghi lại vài sự kiện tương tự đó tiếng khóc vì khát khô của con trẻ Ismael trong sa mạc khi Hagar mẹ nó tuyệt vọng nhìn bầu da cạn nước. Thiên sứ đã hiện ra nói với Hagar : “Đừng sợ, Thiên Chúa đã nghe thấy tiếng đứa trẻ, ở chỗ nó nằm” (St 21,17). Cũng vậy, St 4, 1-16 thuật lại cái chết đầu của nhân loại chính là cuộc chiến huynh đệ tương tàn, trong đó Abel bị anh mình là Cain sát hại. Bản văn không hề nói gì về tiếng kêu cầu của Abel, nhưng máu của Abel lại là tiếng kêu báo oán. Thiên Chúa nói với Cain: “Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta”. Tiếng máu đang kêu, nghĩa là tiếng máu của Abel cứ kêu cho đến khi Thiên Chúa đoái nghe và đi tìm Cain để tính sổ với ông về chuyện này.
Có thể nói, mọi tiếng kêu than của những kẻ khốn cùng tuyệt vọng, những giọt nước mắt vì bạo lực,vì bất công của mọi thời và từ mọi nơi, đều trở thành lời cầu nguyện vọng lên Thiên Chúa. Cho dù họ có ý thức đó là lời cầu xin cùng Thiên Chúa hay không, thì Thiên Chúa vẫn lưu tâm đến tiếng kêu than của họ. Vì rằng Thiên Chúa là người Cha nhân hậu, mà người Cha thì nhạy bén với tiếng thét thống khổ của con mình ngay cả khi đó chưa phải là lời ngỏ trực tiếp với Người. Tiếng kêu than của con cái Israel ngụ cư bên Ai Cập cũng như tiếng thở dài của những người di dân cùng khổ hiện nay, tất cả đều trở thành tiếng kêu cầu cùng Thiên Chúa, và Người đang nghe họ và sẽ đích thân ra tay giải thoát họ.
Kết: Xuất hành và hiện tại
Kinh ngiệm của Israel về thân phận ngoại kiều trên đất Ai Cập là kinh nghiệm của kẻ từ di dân trở thành nô lệ, từ tha phương thành vong thân và đã được Thiên giải cứu. Di dân cũng đang là vấn nạn của Việt nam hôm nay. Chúng ta đang chứng kiến những dòng người từ các tỉnh lẻ, từ những nơi xa, tận ở niềm Trung, niềm Bắc kéo vào Nam kiếm việc làm. Sống giữa những người xa lạ, sống với “tứ phương thiên hạ” mà họ chẳng biết ai và không ai biết họ.Chính họ cũng quên luôn mình là ai và chỉ còn mối bận tâm duy nhất là kiếm sống. Họ không bị ai bắt làm nô lệ, không có Pharaon nào đặt lên cổ họ ách nô lệ như con cái Israel thuở xưa phải chịu, chính nhu cầu kiếm sống đã khống chế họ. Một khi kiếm sống trở thành mục đích tối hậu của cuộc đời, thì không còn chỗ cho Thiên Chúa. Chính lúc đó con người cũng đánh mất phẩm giá làm người của mình.
Trong khi con cái Israel kêu than về kiếp nô lệ của mình, thì những người di dân trên đất nước chúng ta lại có nguy cơ để cho sự lo toan vật lộn với cuộc sống bóp nghẹt cả ý thức về sự vong thân của mình. Họ đánh mất ý thức vềsự nô lệcuộc sống của mình mà không hay. Có lẽ Thiên Chúa đang cần một Môsê, những Môsê, để nói cho họ rằng họ có một người Cha trên trời yêu thương họ và chạnh lòng khi thấy họ sống xa Người, bơ vơ như chiên không người chăn. Ngườiđang muốn giải phóng họ khỏi sự vong thân và đưa họ đến núi thánh của Người để phụng sự Người trong sự thật. Việc phụng sự đó không thêm gì thêm cho Chúa, nhưng mang lại cho họ ơn cứu độ đích thực.
Không hẳn chỉ những di dân mới bị nô lệ cuộc sống, cả chúng ta, mỗi người đều là nạn nhân của các Pharaon dưới nhiều hình thức khác nhau. Áp lực của công việc, của thời gian, của dư luận đè nặng trên chúng ta.Thế giới thông tin đang lên ngôi và người ta tự nguyện bị cầm tù bởi nó. Những mối tương quan gia đình cũng như nhưng cuộc gặp gỡ bằng hữu trở nên tẻ nhạt vì điện thoại, máy tính…Rồi những nô lệ cho những nhu cầu tự tạo ngày càng cao và con người càng tìm càng thấy trống rỗng hụt hẫng, thì lại càng lao mình tìm thỏa mãn. Việt Nam còn phải kể đến nô lệ thành tích, nô lệ hình thức, nô lệ sự hoành tráng vĩ đại đến nỗi điều chính điều phụ dẫm lẫn lên nhau. Người ta không ngại nhân danh Chúa để tìm vinh danh cho mình và cho nhau. Lịch sử còn ghi lại câu nói thời danh của Hiller, toàn thể dân chúng đón tiếp ông trong buổi mít tinh hôm đó tâm phúc khẩu phục bởi câu nói của ông: “Đối với ky tô giáo, mọi quyền bính đều đến từ Thiên Chúa, tôi đang nắm quyền bính, vậy thì tôi đến từ Thiên Chúa !”. Từ muôn thuở, Pharaon của Danh Lợi Thú vẫn đầy ma lực lại rất ma mãnh, con người khó hòng thoát khỏi quyền lực của nó. Người coi kinh danh lợi thì rơi vào vòng lạc thú, kẻ kinh chê của cải lại bám chặt lấy danh. Siêu thoát được mặt này, người ta lại tìm bù trừ ở thứ khác. Thế đó, con người cứ mãi quay quắt đi tìm phù hoa hư ảo, dẫu đã quen với câu: phù vân nối tiếp phù vân, chi chi chăng nữa cũng là phù vân ! Về điều này, thánh Phaolô đã thú nhận: “Sự thiện tôi muốn, thì tôi không làm, còn sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Một khi chúng ta nhận ra điều đó như thánh Phaolô, chúng ta cũng thốt lên như ngài: “Tôi thật khốn nạn ! Ai sẽ giải phóng tôi…” và chúng ta cùng reo trong hạnh phúc với thánh Phaolô: “Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su ki-Tô, Chúa chúng ta !” (Rm 7,24-25). Chúng ta có thể viết tiếp Tv 136:
Đức Giêsu Ki Tô, Con Thiên Chúa, đã giải thoát chúng ta
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương ! ( Tv 136 )
Sơ Agnès Nguyễn Thị Cảnh Tuyết
( Giáo sư dạy môn Kinh Thánh )
Nguồn: Daminhtamhiep.net
Read more…

“Bóng đêm” trong đời sống Tu sĩ

13:56 | Thứ Hai, 11 tháng 4, 2016
20
Người đời vẫn cho rằng: “Tu là cõi phúc, tình là dây oan” thế nhưng đâu phải đời tu của ai cũng giống ai ? Tu thời nào cũng như thời nào? Cộng đoàn nào cũng giống cộng đoàn nào ? Đời sống thánh hiến là một ơn gọi đặc biệt mà Chúa ban tặng cho những người mà Ngài muốn gọi và chọn. Tuy nhiên để đạt tới sự viên mãn trong đời sống thánh hiến, một đời tu đúng nghĩa của nó, người sống đời thánh hiến phải nỗ lực về nhiều phương diện khác nhau để trở nên một con người tu sĩ thực sự. Đời sống đặc biệt ấy đòi hỏi người tu sĩ phải trải qua biết bao thăng trầm trong cuộc sống, vui cũng nhiều mà đau khổ cũng không ít. Bên cạnh đó trong đời tu, người thánh hiến cũng có thể gặp phải những “bóng đêm”. Vậy những “bóng đêm” ấy là gì?
Thực tế mà nói, nhiều giáo dân ở Giáo Hội Việt Nam vẫn quan niệm rằng, đời tu là sung sướng nhất, đời tu là hạnh phúc nhất. Thế nhưng người ta quên rằng, những người sống đời thánh hiến vẫn chỉ là con người yếu đuối mỏng giòn. Vì vẫn còn là con người nên họ không tránh khỏi những đau khổ và những cái họ gọi là “bóng đêm” trong suốt đời thánh hiến của họ. “Bóng đêm” lớn nhất trong đời tu, theo tôi có lẽ đó là bóng dáng của dục vọng, vẫn là một thứ luôn luẩn quẩn trong đời họ. Là một con người, ai ai cũng không tránh khỏi cám dỗ.
Trong số đó, ba cám dỗ lớn nhất của con người là TÌNH – TIỀN – TÀI. Là một con người bình thường, xét theo người đó được sinh ra theo lẽ tự nhiên và mang trên mình đầy đủ hiện thế và tiềm thể của một con người như Chúa dựng nên từ ban đầu, ai cũng chịu tác động của thế giới xung quanh, của xã hội bên ngoài. Chính những tác động ấy làm cho con người biến đổi theo thời gian. Người sống đời thánh hiến cũng vậy, vì đơn giản họ vẫn là những con người bình thường như bao người khác. Thậm chí, khi họ bước theo ơn gọi tu trì, tức là họ đang đi ngược với “dòng đời” nổi trôi với nhiều bất công, bạo lực, khoái lạc…thì họ lại càng bị chính những thứ đó cám dỗ đeo đuổi. “Bóng đêm” dục vọng vẫn luôn rình rập bên cạnh họ và luôn tìm cách để xâm chiếm họ – những người đang đấu tranh với chủ nghĩa thế tục. Và chúng ta phải thừa nhận rằng, rất nhiều người trong số họ đã không thể thoát ra được “bóng đêm” ấy.
Thực tế hiện nay, một cách nào đó trong nhiều cộng đoàn dòng tu vẫn đang bị “bóng đêm” dục vọng lẩn trốn bên trong. Có thể họ nhận thấy điều đó, nhưng cũng có thể họ không nhận ra điều đó. Vì ma quỷ cám dỗ chúng ta theo một cách rất khôn ngoan. Chúng tìm cách để đánh vào đúng “điểm yếu” của chúng ta. Trong một đời sống cộng đoàn, chúng sẽ tìm cách phá hủy từ mỗi cá nhân cách thầm kín. Những yếu tố khiến cho người tu sĩ dễ sa vào những ham muốn dục vọng là: họ sống độc thân – điều mà người ta cho là bất thường so với tự nhiên; họ đang sống trong thời đại của công nghệ thông tin kỹ thuật phát triển; họ đang sống trong một xã hội phát triển và có nhiều thay đổi; họ đang sống trong những điều kiện đầy đủ về mọi mặt của đời tu, họ có được nhiều ưu đãi, tự do và thoải mái hơn so với đời tu trước đây,…
Những yếu tố đó đã kéo họ đi theo con đường có xu hướng thế tục hóa đời tu một cách đáng báo động. Rất nhiều tu sĩ vì không nhận thấy rõ những cạm bẫy đó trong đời tu nên họ đã tìm cách thỏa mãn tính dục, thỏa mãn những đam mê của mình và rồi họ đã đi quá sâu vào vòng luẩn quẩn của cám dỗ ấy mà không thoát ra được. Dĩ nhiên, những người đó không bao giờ để lộ ra bên ngoài những việc họ làm, và họ luôn tìm cách để dấu giếm, lén lút làm những việc đó và chỉ mình họ biết. Họ cũng không dám chia sẻ với người khác về những chuyện riêng cá nhân của họ, và thế là họ chỉ giẫm chân tại chỗ mà không tìm được lối thoát. Chúng ta đã chứng kiến rất nhiều hoàn cảnh của nhiều tu sĩ, họ đã phải chấp nhận rời khỏi đời tu chỉ vì họ đã không tìm ra lối thoát khi bị rơi vào “bóng đêm” của dục vọng, của đam mê, của tình cảm đi quá giới hạn.
Chán nản, mất kiên nhẫn cũng là những “bóng đêm” không thể không có trong đời tu. Nói theo cách điện ảnh: “Đời tu là một vở kịch được diễn đi diễn lại hằng ngày.” Nghĩa là, công việc mà người tu sĩ làm hằng ngày, không có gì thay đổi, ngày nào cũng như vậy, ngày nào cũng giờ đó thức dậy, đi lễ, đọc kinh, ăn, học, làm việc… dường như cùng một kịch bản như nhau cho suốt cả đời tu. Nói như vậy thì có vẻ hơi tiêu cực, có vẻ như đời tu dành cho những người rảnh rỗi, dành cho những người ăn không ngồi rồi và chỉ làm những công việc nhẹ nhàng đó mà thôi. Thế nhưng, đâu phải đơn giản như vậy? Quả thật đời tu lắm lúc khiến cho người tu sĩ cảm thấy mệt mỏi vì công việc, vì đời sống cộng đoàn, vì đời sống thiêng liêng…và thực tế cho thấy nhiều bạn trẻ thời này không chịu được thực trạng đó khi họ tìm hiểu ơn gọi của mình trong đời sống thánh hiến. Nói như vậy, chẳng lẽ đời sống thánh hiến sẽ mất dần trong tương lai vì chẳng có gì mới mẻ, chẳng có gì hay để lôi cuốn các bản trẻ ư ? Không hẳn là như vậy. Đó chỉ là một khía cạnh nào đó được nhìn nhận theo nghĩa tiêu cực.
Đối với tôi, đôi lúc quả thực đời sống tu trì làm cho tôi cảm thấy mệt mỏi, không còn tha thiết với nó. Thế nhưng, đó chỉ là những lúc tôi bị ảnh hưởng bởi ngoại cảnh mà thôi. Còn trong sâu thẳm, tôi vẫn cảm nhận được rằng, tôi rất hạnh phúc vì tôi được vinh dự sống đời thánh hiến, một ơn gọi đặc biệt mà Chúa đang mời tôi tìm hiểu không ngừng thánh ý của Ngài. Và chỉ khi nhận ra được điều đó, tôi mới cảm thấy mình đang hạnh phúc hơn nhiều so với những người khác. Nhìn vào đời tu, có lẽ ai cũng có một suy nghĩ khi biết rằng để trở thành một tu sĩ hay linh mục phải trải qua một chặng đường dài dằng dặc. Và đó là một trong những lý do làm cho người tu sĩ cảm thấy chán nản và không đủ kiên nhẫn để đi tiếp.
Một trong những “bóng đêm” khác của đời tu là sự làm dụng quyền lực nơi một số người tu sĩ, linh mục. Điều này không tránh khỏi trong các cộng đoàn tu trì, hay nơi các giáo phận. Nó là “bóng đêm” vì nó vẫn đang ẩn mình trong các cộng đoàn tu trì hay giáo phận, mà nhiều khi người ta vẫn chưa tìm được cách loại nó ra khỏi đời tu. Thực tế cho thấy, có rất nhiều linh mục, tu sĩ khi đã đạt được mục đích của mình, thì họ đã quay ngược lại với những gì họ được học, được đào tạo, được linh hướng.
Theo tâm lý học, đó là một tình trạng rất nguy hiểm, đặc biệt đối với những người sống trong sự chịu đựng, cố kìm nén trong suốt quá trình đào tạo mà không tìm cách giải tỏa những uẩn khúc, ức chế. Họ cố gắng dồn nén chúng đi vào tiềm thức và không tìm cách cho chúng thoát ra ngoài đúng lúc, thế rồi, khi đã đạt được đích điểm của mình, tức là trở thành người có “quyền cao chức trọng” họ bắt đầu tung hết tất cả những tiềm thức bên trong ra và áp đặt trên người anh chị em của mình. Nhiều người đang có não trạng chung đó, nhưng trong số họ vẫn còn những người biết tìm cách kiềm chế bản thân để đi theo hướng ngược lại với ký ức xấu trong quá khứ. Những người đó mới thực sự là những người trưởng thành và ý thức được ơn gọi của mình. Còn những ai bị khủng hoảng tinh thần trong quá khứ nhưng không hiểu được điều đó để rồi tìm cách “khủng bố” lại người khác và đây là một vấn đề thật là nguy hiểm cho người tu sĩ. Đức Ki-tô đã dạy chúng ta: “Ai muốn làm lớn trong anh em thì phải làm người phục vụ anhem.”(Mc 10,43). Vậy, là người tu sĩ, chúng ta đang đi theo thầy Chí Thánh của mình, tại sao chúng ta lại không noi theo những gì mà Thầy mình đã nêu gương ?
Ham muốn của cải vật chất cũng một “bóng đêm” không phải là không có trong đời sống thánh hiến trong thời đại hôm nay. Khi thế giới bên ngoài đang chạy theo chủ nghĩa thế tục thì đời sống thánh hiến cũng đang bị ảnh hưởng rất mạnh về điều này. Người ta vẫn thường nói: “Lòng tham của con người là vô đáy”. Đây là một kinh nghiệm thực tế trong xã hội con người. Như thể con người sinh ra đã bị gắn cho một cái nhãn của lòng tham lam. Hầu như con người không chịu chấp nhận với những gì mình đang có nhưng luôn tìm cách để có được nhiều hơn. Và điều đó cũng đang là một thực trạng rất thật trong đời tu.Dù là một tu sĩ nhưng lòng tham của cải vật chất của một số người vẫn khôngthoát ra được khỏi con người của họ. Họ cứ ở mãi trong vòng xoay của vật chất thế tục mà chưa nhận ra được điều gì là quan trong nhất của đời sống thánh hiến. Chúng ta rất buồn khi nghe biết một số anh chị em vì tiền bạc mà đánh mất chính mình, phản bội lại lời hứa với Chúa và từ bỏ anh chị em của mình. Họ chỉ muốn nhận mà chẳng bao giờ biết cho đi. Là người tu sĩ, chúng ta phải hiểu như thế nào về của cải vật chất trong đời sống thánh hiến ?
Có lẽ, vẫn còn nhiều những “bóng đêm” khác làm cho đời sống thánh hiến bị mất tín trong mắt của người đời. Nhưng chúng ta không thể phủ nhận được thực trạng đó. Chúng ta cần phải học cách chấp nhận để lớn lên hơn là phủ nhận hay thất vọng, vì “ơn Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được thể hiện trong sự yếu đuối” (2Cr 12, 9). Đó chính là niềm hy vọng cho chúng ta khi mà chúng ta phải đón nhận một thực trạng đáng buồn trên. Nhưng chúng ta tin tưởng vào sự quan phòng vô biên của Chúa. Khi chúng ta yếu chính là lúc chúng ta mạnh. Chúng ta hãy cùng nhau nhận ra những “bóng đêm” đó và hãy chiến đấu với chúng để xứng đáng là những môn đệ trung tín của Chúa Giê-su.
Thầy Joseph Nguyễn Văn Định, C.S.Sp.
Read more…
Trang 1 / 2512345...25»